Aa

Cổng làng cho phố rêu phong

Nhà thơ Đoàn Văn Mật
Nhà thơ Đoàn Văn Mật doanvanmat@gmail.com
Thứ Ba, 30/08/2022 - 06:15

Thời gian có thể làm đổi thay mọi thứ, nhưng chừng nào cổng làng còn đó, thì những con người, những câu chuyện quanh đó vẫn mang dáng vẻ riêng, vẫn phảng phất đường nét từ bao năm xưa cũ.

Giờ đây, khi ngay cả ở những miền quê, bóng dáng cổng làng, cổng xóm… đã trở nên hiếm hoi, xa vắng… thì ta lại có thể tìm thấy nét thâm trầm, rêu phong ấy ngay giữa phố đông, mà Thụy Khuê là con phố tiêu biểu nhất của Hà Nội còn giữ được nhiều cổng làng. Mỗi khi có dịp qua phố ấy, giữa nườm nượp người xe xuôi ngược, vẫn bắt gặp cái hồn cốt làng quê qua từng mảng sơn tróc lở đang ửng sáng trong nắng sớm, qua từng góc chợ họp ngay phía trong cổng làng mà rau dưa, thịt cá được bày trong rổ rá thay vì các sạp hàng sáng choang hình dung quen thế nơi phố thị.

Cổng làng ở miền quê gợi lên trong tôi mùi rạm rơm, bùn đất, khói đốt đồng, mùi hoai mục của lá rụng xuống mặt nước rồi xếp tầng tầng lớp lớp dưới những ao chuôm, hồ đềm, kênh mương… vẩn lên trong nắng sớm cảm xúc về sự tan loãng, thấm sâu, hồi sinh trong màu xanh non lá mới. Cổng làng là nơi chốn đi về, là lề là thói mỗi vùng quê, có lẽ bởi thế nên chẳng làng nào, thậm chí thôn xóm nào giống nhau. Có cổng xây bằng gạch. Cổng lại ghép đá. Cổng bề thế oai nghiêm. Cổng trầm lắng mộc mạc. Nhưng dù có thế nào thì vẫn một vẻ vững chãi, đường hoàng, để mỗi khi bước qua đó, lòng luôn cảm thấy bình yên. Từ đó sẽ là những con đường nhỏ dẫn tới sân đình, tới những xóm, những thôn.

Cổng làng là nơi chốn đi về, là lề là thói mỗi vùng quê. (Ảnh minh họa)

Mùa hạ đang vợi dần, những buổi chiều Hồ Tây còn oi oi, sóng gờn gợn mang dáng hình những chòm mây nằng nặng. Ai cũng đợi chờ một trận mưa trút xuống như gột rửa, như gọi về từng đợt heo may giữa tiết thu trong vắt. Giữa cái gạch nối lỡ cỡ ấy, chẳng hiểu vì đâu lần nào cũng về lại hướng Thụy Khuê. Phố vẫn nét làng, xoa dịu mọi chộn rộn và bức bối. Đi vài chục mét, lại gặp cổng làng đầy dấu ấn hoài niệm, mỗi cái cổng một dáng vẻ riêng. Số 562 là cổng làng Yên Thái, từng nổi tiếng với nghề làm giấy dó, trên cổng có bốn chữ vàng “Mỹ tục khả phong” do triều đình ban. Cổng Xanh đầu ngõ 514 Thụy Khuê xưa có chức năng  ngăn chặn giặc dã, cướp bóc… bây giờ người dân cứ gọi chệch thành cổng Xanh. Cổng làng Đông Xã ngõ 444 Thụy Khuê trong ký ức những người già ở làng, xưa  còn có năm bậc lên xuống nhưng theo thời gian, người dân đã phá bỏ để thuận tiện đi lại hơn. Cổng có dòng chữ “An Đông chính lộ” khá nguyên vẹn khắc ở chính giữa…

Người xưa vẫn quen gọi mạn Thụy Khuê là đất Kẻ Bưởi, bởi nơi này thuộc đất Kẻ Bưởi - vùng đất cổ nằm ở phía Tây Bắc của Thăng Long xưa. Vùng này xưa có bốn làng: Yên Thái, An Thọ, Đông Xã và Hồ Khẩu. Cổng làng lớn nhất ở phố Thụy Khuê thuộc làng Hồ Khẩu, được xem như “cổng quan”, xa xưa, khi làng có hội hay việc lớn mới đi qua cổng này. Phía trước cổng là ba bậc đá, thềm lát gạch đỏ phía trên. Cổng lớn ấy chỉ dành cho quan và rước kiệu, người dân cũng không đi lại. Dọc phố Thụy Khuê, có rất nhiều cổng làng và đều nằm bên dãy nhà số chẵn. Bởi lẽ, phần đất tiếp giáp với bờ Nam của Hồ Tây đều là những làng nghề, tất cả cổng làng được dựng lên từ thuở xa xưa ấy.

Một cổng làng trên phố Thuỵ Khuê ngày nay. (Ảnh: VOV)

Qua bao thăng trầm, phần lớn cổng đã được trùng tu tôn tạo, nhưng nét thời gian như vẫn còn đó, trong sự cũ kỹ rêu phong không vôi vữa, sơn hồ nào che khuất. Những đôi câu đối bằng chữ Nho khắc tạc hai bên vẫn nguyên vẹn đó. Những cây bồ đề và muỗm cổ thụ vẫn đổ bóng xuống từng mặt sân rêu. Thuở xưa, dân làng gọi cổng làng bằng những cái tên thân thuộc mà ngắn gọn: Cổng Giếng, cổng Hầu, cổng Chùa, cổng Đông, cổng Cái, cổng Xanh… Phía sau từng cánh cổng là đình chùa, dân cư sinh sống, làm nghề… trong nếp làng bền chặt.

Bây giờ, cạnh mỗi cổng làng thể nào cũng gặp hàng trà đá, phiên chợ cóc hoặc đôi bàn cờ của các bậc cao niên. Thời gian có thể làm đổi thay mọi thứ, nhưng chừng nào cổng làng còn đó, thì những con người, những câu chuyện quanh đó vẫn mang dáng vẻ riêng, vẫn phảng phất đường nét từ bao năm xưa cũ. Người tứ phương đến định cư, nhưng nhìn chung người làng vẫn còn bám trụ, nếp làng vẫn hồn hậu, thong dong. Hiếm hoi suốt dải Thụy Khuê vẫn còn một con đường lát gạch nghiêng dài vài trăm nét là của làng nghề Yên Thái xưa hàng trăm năm tuổi. Nét xưa còn lại khiến người người bâng khuâng nhớ những câu ca dao nổi tiếng: “Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”. Ấy là nhịp chày giã dó của làng, là nhịp mưu sinh chộn rộn đầy sức sống.

Cách đây vài năm, chúng tôi có dịp hàn huyên với ông Nguyễn Văn Phú, bấy giờ ông đã ngoài 80 tuổi, từng làm thủ từ đình Yên Thái gần 20 năm. Chuyện về làng xưa, thành cũ ông đều nhớ rõ. Ông kể, làng có ba thôn, ứng với những cái cổng rất riêng biệt. Thôn Đoài, còn gọi là An Thái Đoài hay thôn Cả có cổng Giếng. Thôn Thọ có cổng Hầu, cổng Xanh. Thôn Đông thì có cổng Đông. Mỗi cổng mang từng nét riêng và câu chuyện riêng. Trong số cổng ra vào làng thì cổng Giếng ở thôn Đoài xưa là cổng thôn Cả, cổng bề thế nhất. Xa xưa, làng Yên Thái nằm trên đồi Kim Quy, lượn theo thế rồng bay. Đầu rồng là khu vực đình làng. Hai mắt là hai giếng khơi, một mắt là giếng nước cạnh đền Long Tỉnh trước cổng chính của làng Yên Thái, một mắt ở thôn Tiên Thượng (Nghĩa Tân ngày nay). Vì thế, cổng thôn Đoài thường được người dân gọi là cổng Giếng.

Có lẽ, ngoài Thụy Khuê, thật khó tìm được một nơi chốn nào giữa phố xá còn giữ được nhiều cổng làng như thế. (Ảnh: Báo Giao thông)

Sau mỗi cổng làng bề thế giờ nằm ngay mặt phố là những cổng ngõ nho nhỏ, phong rêu. Một làng nghề từng quần tụ đông vui như Yên Thái không biết bao nhiêu là cổng ngõ. Cổng ngõ để xác định ranh giới xóm, thôn, cũng làm nên không gian riêng biệt. Khác với bây giờ, xưa kia, cổng làng đều có cánh. Mỗi ban mai, từ lúc còn tinh sương, cánh cổng được mở ra, bắt đầu của một ngày mới, và tới khuya, cửa đóng khen cài. Trong sách về cổng làng của Vũ Duy Huân từng mô tả: “Cổng làng ngày mở ra đêm khép lại để ngăn ngừa cướp bóc. Đêm trong cổng có điếm canh lập loè ánh sáng bùi nhùi. Có giá đựng giáo, mã tấu, sừng trâu đen bóng làm tù và. Đêm đêm, đám tuần phiên đến đây nhận việc, cắt cử nhau bảo vệ làng”. Giờ thì hầu hết cửa không còn cánh, cứ mở ra vời vợi giữa nắng mưa, sớm tối.  

Nhẩn nha chuyện trò lại hiểu thêm, làng Yên Thái không chỉ nổi danh bởi nghề làm giấy dó, mà có biết bao huyền tích thực hư, bảng lảng như sương khói Tây Hồ. Ở cổng Hầu của làng có đôi câu đối: “Tô Thủy tuần hoàn văn phái viễn/ Lý thành tả trĩ bút phong cao” (Dòng Tô Lịch đưa văn phái toả xa/ Thành nhà Lý sánh cao cùng sức bút). Các bậc cao niên kể lại, xưa kia, cách cổng không xa là nhà một vị quan có tiếng của triều đình, người đầu tiên của làng đỗ đạt. Bởi thế mà người làng trọng vọng, xây nhà lầu gác tía, cử người canh gác suốt ngày đêm. Làng còn gắn với huyền tích từ thời nhà Lý về vợ chồng “ông Dầu bà Dầu” cứu vua nhà Lý mắc bệnh về mắt. Tương truyền, thuở ấy, đất này có hai con sông Thiên Phù và Tô Lịch ám lời nguyền bị quỷ chiếm giữ, chính chúng làm cho vua mắc bệnh. Theo lời các bậc tiên tri, triều đình phải lấp hai con sông ấy. “Ông Dầu bà Dầu” vì cứu vua đã trẫm mình xuống sông. Cảm kích, nhà vua hạ chiếu chỉ đưa dân về sinh sống, trông nom đền thờ rồi dựng nghề làm giấy dó. Có lẽ, ngoài Thụy Khuê, thật khó tìm được một nơi chốn nào giữa phố xá còn giữ được nhiều cổng làng như thế. Vẫn là cổng tam quan, một lối chính ở giữa, lối phụ hai bên, xây cuốn tò vò, trên có mái che.

Mái cổng rêu phong tạo nên hình ảnh thơ mộng và yên bình. (Ảnh: Báo Giao thông)

Cổng làng còn đó, thâm trầm giữa phố đông. Niềm tự hào xen lẫn tiếc nuối của người trong làng khiến mạch chuyện thêm phần bồi hồi, xao động. Chẳng thế nào lại không nhớ quê hương. Nơi ấy, dầu không còn cổng làng, ký ức dầu phai nhạt, vẫn hiện hữu dáng nét làng trong từng phong tục tập quán, tình cảm làng xóm họ mạc xa gần. Có một thuở, dù đời sống sung túc hay nghèo khó, người dân vẫn tự hào về những cổng làng thâm trầm uy nghiêm. Mỗi khi có dịp lên mạn Hồ Tây, tôi vẫn nhớ đôi câu đối: “Cổ vãng kim lai hành chính đạo/ Nam du Bắc ngoạn ngưỡng Tây Hồ”, có nghĩa, từ xưa đến nay, đây là con đường chính để chiêm ngưỡng cảnh đẹp của Hồ Tây. Như thấy hiện hữu từ dáng nét cong cong, màu sơn phong rêu bao dáng hình xưa cũ. Cũng chợ, cũng làng, cũng râm ran chuyện cổ, thời này kể chuyện thời xưa. Cổng làng, dầu là ngôi làng nào, có phải làng mình hay không, vẫn tạc vào lịch sử, tạc vào lòng người muôn nỗi nhớ thương, vương vấn và thôi thúc kiếm tìm, cắt nghĩa. Ta có trở đi trở lại bao lần, vẫn cứ bâng khuâng, lòng nhen nhóm bao nhiêu tưởng tượng xa gần, rằng chính nơi ta đang đứng đây, ngày xưa, thuở ấy, đã chồng xếp bao nhiêu là trầm tích, giờ vẫn đang rầm rì ký ức bủa vây…/.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top