Aa

Trương Gia Bình – “Bưởng trưởng” mỏ vàng trí tuệ Việt Nam

Thứ Hai, 03/10/2016 - 14:15

Tôi tin chắc rằng không chỉ ở Tập đoàn FPT mà với nhiều người hoạt động trong lĩnh vực phần mềm ở Việt Nam, đặc biệt trong lớp trẻ, ông là một huyền thoại.

Huyền thoại không chỉ vì ông là một trong những Phó Giáo sư trẻ nhất nước một thời, là một doanh nhân thành đạt, là một người anh đáng kính và nể trọng, một người đàn ông hấp dẫn, mà còn là một người bạn gần gũi, hóm hỉnh và đậm chất nghệ sĩ. Nhưng đấy chưa phải là tất cả…

Kỳ 1: Mỏ vàng bỏ hoang

Việt Nam ta có 2 mỏ vàng lớn, đó là Bồng Miêu và Phước Sơn. Theo kết quả thăm dò năm 2005 cho thấy, trữ lượng vàng ở mỏ Bồng Miêu khoảng 12.388 kg. Tại huyện Phước Sơn, mỏ vàng Phước Thành trữ lượng đạt 11.602 kg, mỏ Đăk Sa (xã Phước Đức) có trữ lượng 7.210 kg. Mỗi năm, sản lượng khai thác khoảng trên dưới 2 tấn vàng, tính “tẹt ga” cũng chưa tới 100 triệu USD.

Thế nhưng đến năm 2015, “mỏ vàng phần mềm” của Việt Nam đã đem lại cho đất nước khoảng 2,8 tỷ USD, tương đương với trên 60 tấn vàng. Trong khi đó, năm 2015, Việt Nam xuất khẩu được 6,568 triệu tấn gạo, trị giá 2,68 tỷ USD.

Khi hỏi, ai là “bưởng trưởng” mỏ vàng ấy, không ít người đã nghĩ đến Chủ tịch Hiệp hội Phần mềm và Công nghệ thông tin (CNTT) Việt Nam suốt 4 khóa liền từ ngày thành lập đến nay đều mang chung một cái tên: Trương Gia Bình.

Chủ tịch tập đoàn FPT Trương Gia Bình

Chủ tịch tập đoàn FPT Trương Gia Bình

Có lẽ nhiều người không nghĩ rằng chỉ cách đây khoảng 15 năm, mỏ vàng này vẫn bị bỏ hoang.

Câu chuyện bắt đầu vào một ngày đầu năm 2001. Quán cà phê Le Tonkin của cô chủ Mai đang đông khách đến ăn nhẹ bữa trưa. Bên một chiếc bàn nhỏ có ba người đàn ông tầm tuổi trên dưới 40, vóc dáng khác nhau, ăn mặc cũng khác nhau nhưng cùng với vẻ mặt đăm chiêu và suy tư.

Một người dễ dàng được nhận ra bởi anh là một doanh nhân khá nổi tiếng trong lĩnh vực IT, đương kim Chủ tịch Hội các nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam, Chủ tịch tập đoàn FPT lừng danh Trương Gia Bình. Còn hai người kia cũng là giám đốc của hai công ty IT nhỏ hơn, anh Hà Thế Minh, giám đốc công ty CMC và anh Nguyễn Nhật Quang, giám đốc công ty Hài Hòa.

Câu chuyện của 3 người, của 3 doanh nhân trẻ đầy khát vọng ấy không gì khác ngoài việc tìm con đường phát triển không chỉ cho doanh nghiệp của mình mà còn cho cả một nền công nghiệp IT đang quá sơ khai và mới mẻ ở Việt Nam.

Sơ khai về cơ sở vật chất đã đành, mà sơ khai cả về trong tư duy của nhiều nhà lãnh đạo đất nước, về hệ thống pháp lý, về đào tạo nguồn nhân lực… Thế kỷ 21 đã bắt đầu được hơn một năm trong bối cảnh thế giới đang tiến như vũ bão khai thác nền công nghiệp đầy trí tuệ này.

Vậy tương lai của nền IT Việt Nam, của các doanh nghiệp IT Việt Nam sẽ đi về đâu?

Trong báo cáo của Chính phủ, thành quả của công cuộc đổi mới trong 10 năm 1991-2000 là rất ấn tượng, đặc biệt lĩnh vực công nghiệp. Nhiều ngành hàng được thống kê so sánh năm 2000 với năm 1991, từ “thượng vàng” như dầu thô gấp 6,0 lần và tăng bình quân mỗi năm 19,6%; than sạch gấp 2,3 lần, tăng 8,7%/năm; điện gấp 3,0 lần, tăng 11,6%/năm; thép cán gấp 16,5 lần, tăng 32,4%/năm;… đến “hạ cám” như giầy dép da gấp 14,9 lần, tăng 31,0%/năm; giầy vải gấp 4,9 lần, tăng 17,2%/năm; quần áo may sẵn gấp 2,6 lần, tăng 10,0%/năm; giấy bìa gấp 4,8 lần, tăng 17,0%/năm …

Không có một sản phẩm nào của IT được thống kê (?!).

Đã 13 năm trôi qua kể từ khi Việt Nam khai thông trạm thông tin vệ tinh công nghệ phương Tây đầu tiên ở TP. HCM, đồng thời kết nối với Ôxtrâylia, tự động hòa mạng viễn thông Việt Nam với thế giới năm 1987. Ông Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, nhận xét: “Đó là bước ngoặt lớn trong lịch sử viễn thông Việt Nam. Lần đầu tiên VN thực sự bước vào làm ăn với phương Tây về viễn thông trong khi đang bị cấm vận. Đây là bước ngoặt đánh dấu nhiều điều. Thứ nhất, chúng ta lấy được công nghệ phương Tây. Thứ hai, mở ra cơ hội kiếm tiền trên công nghệ mới. Thứ ba là thí điểm xem công nghệ hiện đại có vào VN được không, thị trường VN có hấp dẫn với nước ngoài không. Thứ tư là thí nghiệm về việc các công nhân, kỹ sư VN có thể làm chủ được công nghệ hiện đại hay không”.

Cho dù vậy, đến cuối năm 1992, cả nước mới có khoảng 500 ngàn thuê bao điện thoại cố định. Di động chưa có, internet chưa có. Việt Nam lúc đó hầu như chưa sản xuất được thiết bị viễn thông, tất cả hầu hết là nhập ngoại. Công nghiệp phần mềm, công nghiệp nội dung số… hầu như chưa có gì. Tất cả đều rất chậm chạp và sơ cứng.

Ngày ấy, nhận thức về công nghệ thông tin của tuyệt đại đa số (vâng, có thể là 99,99%) người dân và kể cả các nhà lãnh đạo cao cấp đều chỉ xung quanh khái niệm “xử lý hộp đen”. Các cơ quan, ban ngành từ cao xuống thấp của bộ máy Nhà nước cùng các phương tiện truyền thông, báo chí đều thường xuyên nhắc đến nguyên lý hoạt động của “hộp đen” để mô phỏng sự đổi mới trong nguyên lý hoạt động của toàn bộ nền kinh tế đất nước nhằm thoát khỏi cơ chế cứng nhắc tập trung-quan liêu-bao cấp là “đầu vào thì cứng mà đầu ra thì mềm”. Còn “hộp đen” hoạt động ra sao thì không ai phân tích nổi.

Trong một hội nghị của Bộ Nội Thương, ông Thứ trưởng Lê Hữu Duyên, nguyên Phó hiệu trưởng Trường ĐH Thương Mại, nhận xét: “Cả cuộc đời tôi chỉ biết có mỗi một cái khi vào thì cứng mà khi ra thì mềm”. Cả hội trường cười ồ lên và đều thầm nghĩ về sự mơ hồ của “xử lý hộp đen”.

Tuy vậy, đến cuối những năm của thế kỷ 20, trước sự phát triển như giông bão về IT trên toàn thế giới, Việt Nam cũng có những chuyển động tích cực nhưng chỉ tựa như cỏ cây trước rừng đại ngàn. Tính đến thời điểm ấy, cả nước mới có khoảng  260 doanh nghiệp và hơn 5.000 lập trình viên làm phần mềm ở các mức độ khác nhau, nhưng thường là ở mức độ đơn giản nhất, mức độ gia công, làm những phần mềm nhỏ ứng dụng, chưa có phần mềm đóng gói và phần mềm lớn. Đặc biệt, chưa có được đội ngũ kỹ thuật viên làm phần mềm theo chuẩn quốc tế từ thấp đến cao. Doanh số ước đạt 50-60 triệu USD/ năm.

Thương hiệu FPT của Trương Gia Bình đứng đầu, được anh em trong nghề tôn làm “anh cả”, mà doanh số phần mềm vẫn chỉ khiêm tốn ở con số hàng triệu.

Trong khi đó, ở các nước như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản…, doanh số tỷ USD vẫn bị coi là “muỗi”!

Kỳ sau: “Phải làm cho các cụ hiểu đã”!

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top