Aa

TS. Trần Thị Hồng Minh: Khai thông thể chế phải là ưu tiên hàng đầu để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp

Thứ Sáu, 27/10/2023 - 06:00

Nếu không thực hiện cải cách thể chế triệt để và căn cơ, sẽ rất khó để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn hiện nay.

Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Minh Chính trình bày tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, ngày 23/10 cho thấy, bên cạnh những thành tựu, doanh nghiệp, nền kinh tế vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn. Ngoài những nguyên nhân khách quan, vượt quá khả năng dự báo, thì việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách vẫn là khâu yếu; một bộ phận cán bộ còn có tâm lý né tránh, sợ trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ thuộc thẩm quyền. Đặc biệt, chúng ta còn những vướng mắc về thể chế, nhất là đối với các vấn đề phát sinh mới.

Chia sẻ với Reatimes, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhấn mạnh: “Nếu không thực hiện cải cách thể chế triệt để và căn cơ, sẽ rất khó để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn hiện nay”.

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM). (Ảnh: quochoi.vn)

Xử lý các khó khăn về tiếp cận nguồn vốn và đất đai phải song hành với nhau

PV: Thưa TS. Trần Thị Hồng Minh, thời gian qua, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp bất động sản đang gặp khó khăn gì?

TS. Trần Thị Hồng Minh: Khoảng 97-98% doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ. Chính vì vậy, tiếp cận vốn chính thức là khó khăn thường trực của doanh nghiệp trong nhiều năm qua. Bối cảnh khó khăn do dịch Covid-19, suy giảm nhu cầu ở cả thị trường trong và ngoài nước cũng khiến các định chế tài chính phải cân nhắc nhiều hơn khi cấp vốn cho doanh nghiệp.

Trước bối cảnh đó, Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng, hạ mặt bằng lãi suất, giãn hoãn, miễn giảm các loại thuế phí. Chúng tôi cho rằng, những chính sách này đã có tác động tích cực nhất định đối với sự phục hồi và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, bên cạnh việc cải thiện tiếp cận vốn, chúng ta phải tháo gỡ thêm những rào cản, quy định để cải thiện khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp.

Trong lĩnh vực bất động sản, nhiều doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn trong huy động vốn, khi mà hầu hết tài sản đều đã thế chấp, hoặc tài sản đang gặp vấn đề về pháp lý; giá trị tài sản suy giảm trong bối cảnh thị trường trầm lắng. Việc huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu cũng trầm lắng hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đang thực sự gặp khó khăn, nhất là trong hai năm 2022 - 2023, khi mà cơ sở pháp lý liên quan đến Luật Đất đai vẫn còn những quy định chưa tạo thuận lợi, thậm chí còn gây khó khăn cho doanh nghiệp. Nhất là liên quan đến việc triển khai xây dựng các dự án, vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng, hay vấn đề sở hữu... 

Nếu tắc ngay khâu tiếp cận quỹ đất, pháp lý, dòng vốn, thì khó khăn của doanh nghiệp sẽ còn kéo dài. (Ảnh minh họa: Reatimes)

PV: Trong bối cảnh đó, nhiều giải pháp đã được đặt ra và thực hiện, nhưng có chính sách chưa thực sự thẩm thấu, nên nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục đối mặt với khó khăn. Đâu là vấn đề cần ưu tiên giải quyết và giải pháp cho những vấn đề đó là gì, thưa Viện trưởng?

TS. Trần Thị Hồng Minh: Trước hết là phải có giải pháp để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn, như có chính sách hạ lãi suất hơn nữa, đồng thời, xem xét các điều kiện vay vốn phù hợp với bối cảnh hiện tại.

Song song với đó, phải có chính sách vận hành thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiệu quả, hỗ trợ cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu, tạo thêm nguồn vốn trung, dài hạn phục vụ hoạt động xây dựng, sản xuất, kinh doanh.

Đặc biệt, phải có những chính sách tạo ra sự cộng hưởng, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, để chúng ta tận dụng tối đa những lợi thế do FDI mang lại, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển.

Thời gian vừa qua, khi doanh nghiệp đối mặt với khó khăn do dịch bệnh, với những khó khăn trong và ngoài nước thì Nghị quyết của Quốc hội, các văn bản hướng dẫn hỗ trợ của Chính phủ đều rất kịp thời, hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp. Nghị quyết số 41-NQ/TW lại càng củng cố thêm thông điệp Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Chính phủ sẽ luôn sát cánh, đồng hành với doanh nghiệp. 

Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện còn phụ thuộc vào nhận thức thông suốt và khơi thông trách nhiệm của các công chức, viên chức. Nếu những thủ tục hành chính còn chậm trễ thì các chính sách được thiết kế tốt cũng trở nên kém hiệu quả. Chính ở đây, chúng tôi nhấn mạnh là phải có thể chế tốt. Thể chế nào chưa tốt thì chỉnh sửa, thể chế tốt mà chưa có thì đưa ra, thể chế nào tốt nhưng chưa được triển khai hiệu quả sẽ phải điều chỉnh vấn đề thực thi. 

PV: Chỉ còn hai tháng nữa là kết thúc năm 2023, mặc dù còn khó khăn, nhưng đâu là những động lực phục hồi tích cực cho doanh nghiệp bất động sản?

TS. Trần Thị Hồng Minh: Trước hết, thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ cải thiện khi Chính phủ có quy định mới, yêu cầu doanh nghiệp niêm yết trái phiếu trên sàn giao dịch và có những giao dịch minh bạch thông qua hệ thống giao dịch điện tử. Từ việc tạo ra thị trường trái phiếu doanh nghiệp minh bạch, doanh nghiệp bất động sản sẽ hy vọng có thêm nguồn vốn từ phát hành trái phiếu, cũng như tạo ra cú hích cho doanh nghiệp bất động sản để họ dễ dàng hơn trong tiếp cận nguồn vốn.

Thứ hai, Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV đã khai mạc và khi Luật Đất đai (sửa đổi) được thông qua sẽ có những thay đổi về mặt pháp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bất động sản tiếp cận nguồn lực đất đai dễ dàng hơn.

Thứ ba, một loạt chính sách của Nhà nước liên quan đến việc hỗ trợ xây dựng các dự án nhà ở xã hội (đã có quy hoạch ở phần lớn các địa phương), cũng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp bất động sản có quỹ đất phát triển các dự án lớn, mang tính đòn bẩy và lan tỏa.

Xử lý các khó khăn về tiếp cận vốn và tiếp cận đất đai phải song hành với nhau. Còn nếu tắc ngay khâu tiếp cận quỹ đất thì tiếp cận vốn cũng chịu ảnh hưởng. Không bảo đảm tiếp cận vốn đầy đủ thì quỹ đất, dù tiếp cận được, cũng chậm chuyển hóa thành các cơ hội kinh tế.

Khai thông thể chế là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ thời gian tới

PV: Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quyền tự do kinh doanh là một trong những nhiệm vụ đáng chú ý được đặt ra tại Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị vừa ban hành mới đây. Thực tế, chúng ta đã thực hiện đến đâu, thưa bà?

TS. Trần Thị Hồng Minh: Hiến pháp 2013 đã quy định rất rõ quyền về tự do kinh doanh, đặc biệt là đối với doanh nhân, là người dân có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Đây là cách tiếp cận rất mở, khi trước đây, Hiến pháp quy định người dân có quyền kinh doanh những gì mà pháp luật cho phép. Những ngành nghề cấm kinh doanh đã được quy định rất rõ trong luật. Như vậy, doanh nghiệp có quyền rất lớn trong việc phát huy quyền tự do kinh doanh của mình theo cách tiếp cận rất tiến bộ như xu hướng của thế giới.

Các quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp cũng đã được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt trong các luật như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp. Xuyên suốt các bộ luật này đều toát lên tinh thần, thông điệp là doanh nghiệp có nhiều quyền hơn trong việc quyết định thành lập doanh nghiệp cũng như trong quá trình sản xuất - kinh doanh.

Những điều này càng được thể hiện sâu sắc hơn thông qua Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân trong tình hình mới, ban hành ngày 10/10 vừa qua.

Đây cũng là những nền tảng, cơ sở thúc đẩy khối doanh nghiệp tư nhân phát triển, nhất là trước đó chủ trương về phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã được thể hiện tại Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017.

Đến nay, sau 6 năm, khu vực tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc, mà một trong những động lực quan trọng là việc thúc đẩy quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, chúng ta có gần 900.000 doanh nghiệp đang hoạt động, số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường ngày càng tăng. Ngay cả trong bối cảnh khó khăn do dịch Covid-19 và những khó khăn khác, khối doanh nghiệp tư nhân cũng chịu nhiều ảnh hưởng, nhưng xu hướng chung vẫn là tăng về số lượng, quy mô. Điều này cho thấy những chủ trương của Đảng cũng như thể chế hóa chính sách của Nhà nước đã tạo động lực cho khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục trụ vững, giữ vững tinh thần doanh nhân và phát huy năng lực đổi mới sáng tạo.

PV: Bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều rào cản về thể chế đối với khối kinh tế tư nhân, trong đó có các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp bất động sản?

TS. Trần Thị Hồng Minh: Đúng vậy, đáng lo ngại nhất vẫn là những rào cản liên quan đến thể chế. Với những thể chế đang tồn tại thì có những chồng chéo, và chính nó lại trở thành rào cản cho doanh nghiệp. Nghị quyết số 41-NQ/TW đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu triển khai cơ chế thử nghiệm có kiểm soát để phát triển một số lĩnh vực mới, có lợi thế, tiềm năng. Dù vậy, những đề xuất chính sách thử nghiệm trong lĩnh vực fintech, kinh tế tuần hoàn thời gian vừa qua đều gặp không ít khó khăn trong quá trình xây dựng. 

Ngay cả khi chúng ta đã ban hành, soạn thảo, đưa ra được những thể chế khá tốt nhưng trong quá trình triển khai lại vấp phải những rào cản thủ tục hành chính và sự quan liêu của các cấp thực thi, khiến doanh nghiệp rất vất vả.

Chính vì vậy, việc khai thông thể chế ở ba cấp độ như đã nêu là ưu tiên sắp tới của Chính phủ. Bên cạnh những hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ thể chế cho doanh nghiệp là hỗ trợ quan trọng nhất. Nếu không thực hiện cải cách thể chế triệt để và căn cơ sẽ khó để tạo ra sức bật cho doanh nghiệp, cũng như thay đổi về cơ cấu nền kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh.

PV: Thời gian tới, CIEM sẽ cùng đồng hành với doanh nghiệp như thế nào?

TS. Trần Thị Hồng Minh: Theo chức năng nhiệm vụ thì CIEM được Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao cho nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, triển khai Luật Doanh nghiệp. Đây là vấn đề mang tính lịch sử, khi mà CIEM đã tham gia xây dựng phiên bản đầu tiên của Luật Doanh nghiệp năm 1999. Sau đó là các phiên bản Luật Doanh nghiệp 2005, 2014 và 2020.

Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi, hướng dẫn doanh nghiệp cũng như các cơ quan liên quan triển khai tốt Luật Doanh nghiệp, đồng thời qua thực tiễn triển khai, tổng kết xem luật còn những vấn đề gì để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, để tạo thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp. 

CIEM cũng được giao nhiệm vụ cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Việc cải thiện môi trường kinh doanh đã được đặt ra tại chuỗi Nghị quyết số 19/NQ-CP (2014 - 2018), chuỗi Nghị quyết 02/NQ-CP (2019 - 2022). Đến năm 2023, Chính phủ quyết định gộp nội dung về cải thiện môi trường kinh doanh (trước đó thuộc Nghị quyết 02/NQ-CP) vào Nghị quyết 01/NQ-CP (2023) về phát triển kinh tế xã hội. 

Tuy nhiên, sau gần một năm triển khai, Chính phủ cũng nhận thấy cần có một nghị quyết riêng về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. CIEM đang chủ trì dự thảo nghị quyết mới này.

Trong nghị quyết liên quan đến cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh này, sẽ có rất nhiều nội dung hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Ví dụ như sẽ rà soát những điều kiện kinh doanh không hợp lý. Như chúng ta đã biết, mặc dù các bộ ngành đã và đang xóa bỏ những rào cản kinh doanh, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều, và còn nhiều những rào cản dưới dạng các tiêu chuẩn, tiêu chí kỹ thuật, cản trở hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Điển hình như tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy, quy định kiểm tra chuyên ngành; quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn kỹ thuật; thủ tục hành chính... Chúng tôi đang phối hợp với các bộ ngành địa phương để đưa ra báo cáo rà soát tổng thể các điều kiện kinh doanh này nhằm xóa bỏ những quy định không cần thiết.

Trong dự thảo lần này, chúng tôi cũng nhấn mạnh việc đẩy mạnh sử dụng nguồn dữ liệu điện tử, trong đó có dữ liệu về đất đai, thông qua các cổng thông tin, trao đổi dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước. Việc tạo ra kho dữ liệu lớn vừa giúp các cơ quan nhà nước tận dụng được nguồn lực của nhau, vừa giúp doanh nghiệp thuận lợi tra cứu thông tin, kết nối và triển khai các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Chính ở đây, chúng ta sẽ cụ thể hóa tư duy biến dữ liệu thành một nguồn lực quan trọng của kinh tế số, xã hội số.

PV: Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Viện trưởng!

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top