Aa

Vật liệu thân thiện môi trường: Xu hướng phát triển bền vững

Chủ Nhật, 15/12/2019 - 11:27

Việc sử dụng các vật liệu truyền thống đã và đang tác động xấu đến môi trường. Vấn đề của ngành xây dựng hiện nay là phải ưu tiên phát triển các loại vật liệu mới thân thiện môi trường, đảm bảo phát triển bền vững.

Vật liệu truyền thống gây ô nhiễm môi trường

Thống kê trong những năm gần đây cho thấy, tổng diện tích trung bình của xây dựng mới là khoảng 80 - 90 triệu mét vuông mỗi năm. Hầu hết các công trình xây dựng vẫn sử dụng các loại vật liệu xây dựng (VLXD) truyền thống, đặc biệt là gạch đất sét nung với sự gia tăng mạnh về số lượng tiêu thụ.

Theo các chuyên gia, các loại VLXD truyền thống gây ra nhiều hệ lụy như mất đất nông nghiệp, gia tăng khí thải, hiệu ứng nhà kính và các loại khí thải độc hại cho môi trường. Theo số liệu thống kê, cứ 1 tỷ viên gạch nung quy chuẩn sẽ tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất được khai thác ở độ sâu khoảng 2m, tương đương với 75ha đất nông nghiệp. Việc dùng than làm nhiên liệu đốt gây ra hiệu ứng nhà kính và các khí thải độc hại khác gây ô nhiễm môi trường.

Dự báo đến năm 2020, nhu cầu sử dụng gạch nung của Việt Nam khoảng 42 tỷ viên. Nếu đáp ứng nhu cầu này sẽ tiêu tốn từ 50 - 70 triệu m3 đất, tương đương với khoảng 3.000ha đất nông nghiệp, tiêu thụ hết 6 tỷ tấn than nung và thải ra môi trường khoảng 23 tỷ tấn CO2.

Ảnh minh họa.

“Rõ ràng, việc sản xuất gạch từ đất sét nung đang tạo ra những áp lực vô cùng lớn đến môi trường sống của con người. Cần phải có giải pháp để tìm ra loại VLXD để dần thay thế loại VLXD truyền thống này”, PGS. TS Nguyễn Văn Tuấn, Đại học Xây dựng Hà Nội cho biết.

Phát triển theo hướng bền vững

Theo Bộ Xây dựng, mặc dù ngành VLXD những năm qua đã đạt được một số bước tiến nhất định, song sản xuất VLXD của Việt Nam vẫn chưa thực sự bền vững, còn bộc lộ những vấn đề bất cập phải được nghiên cứu khắc phục.

Việc đầu tư phát triển sản xuất đối với một số chủng loại VLXD còn chưa hợp lý, quy mô còn nhỏ và phân tán, hiệu quả đầu tư chưa cao. Việc nghiên cứu phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản làm VLXD chưa được chú trọng. Công nghệ sản xuất VLXD ở một số lĩnh vực còn lạc hậu so với trình độ hiện nay ở khu vực và thế giới, đòi hỏi phải được thay thế, đổi mới. Nhân lực kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành…

Bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, cho biết việc phát triển lĩnh vực xây dựng bền vững là rất quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đô thị hóa nhanh chóng.

Do đó, Chính phủ cần có hành động để tạo ra các khung chính sách cho phép hình thành thị trường để các doanh nghiệp có thể sản xuất các loại vật liệu bền vững cho ngành xây dựng đồng thời khuyến khích việc thiết kế, kích cầu người tiêu dùng trực tiếp sử dụng các sản phẩm bền vững.

Bộ Xây dựng đã tập trung nghiên cứu, rà soát, tổng kết thực trạng, đánh giá các kết quả đạt được và tồn tại của các quy hoạch chuyên ngành tương ứng. Trên cơ sở những thông tin, số liệu tổng hợp, dữ liệu thu thập được, Bộ Xây dựng đã phân tích, đánh giá tập trung vào 12 chủng loại VLXD bao gồm xi măng, gạch gốm ốp lát, đá ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng, vôi, gạch đất sét nung, vật liệu xây không nung, vật liệu lợp, cát xây dựng, đá xây dựng và bê tông.

Trong Dự thảo “Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng (VLXD) Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050”, Bộ Xây dựng ưu tiên các dự án sản xuất VLXD mới, dự án công suất lớn ở các vùng có điều kiện thuận lợi về nguyên liệu, có điều kiện phát triển công nghiệp, có điều kiện hạ tầng giao thông, gần thị trường tiêu thụ... khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, sản xuất VLXD; phát triển cơ khí chế tạo cho công nghiệp VLXD...

Mục tiêu từ 2021 - 2030 sẽ đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng có quy mô, công suất lớn đáp ứng nhu cầu trong nước và một phần xuất khẩu; đầu tư phát triển các sản phẩm có năng lực cạnh tranh, thân thiện môi trường; đa dạng chủng loại sản phẩm vật liệu xây dựng chất lượng cao; phát triển các sản phẩm phù hợp cho công trình biển đảo, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Từ 2031 - 2050, ngành VLXD phải sản xuất đạt trình độ là ngành công nghiệp hiện đại, công nghiệp xanh, áp dụng các giải pháp sử dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật vào quản lý và sản xuất; đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và lợi thế cạnh tranh.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Liên kết hữu ích
Lên đầu trang
Top