Sáng 20/11, tại phiên thảo luận ở hội trường về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy (đoàn TP Đà Nẵng) phát biểu: "Thời gian qua tôi liên tục nhận được nhiều đơn thư của cử tri, không chỉ của người nhà các bị cáo mà cả của người dân về 2 vụ án liên quan đến đất đai xảy ra tại thành phố Đà Nẵng trong hai năm 2010 và 2011. Qua nghiên cứu đơn và các bản án, tôi nhận thấy có những điểm khó hiểu, khó lý giải về các bản án đã tuyên. Cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất là vụ Phan Văn Anh Vũ và các bị cáo phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử sơ thẩm Bản án số 48 ngày 30/1/2019 và Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phúc thẩm Bản án số 346 ngày 13/6/2019, xác định thiệt hại của vụ án là 7 tài sản của Nhà nước mua, thuê trái phép, trị giá thiệt hại của tài sản được xác định tại thời điểm các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là năm 2010 và năm 2011. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án nói trên và đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa bản án theo cách xác định trị giá thiệt hại tại thời điểm khởi tố. Ngày 5/9/2019 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã bác đơn kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao bằng Quyết định giám đốc thẩm số 14 do Chánh án ký, tại mục 2 trang 18 và 19 của quyết định viết "về xác định thiệt hại trong vụ án khoa học pháp lý và pháp luật hình sự đều quy định việc xác định thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra được xác định tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Đây là cơ sở để xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo, trong vụ án này Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định thiệt hại của vụ án là 7 tài sản đã mua, thuê trái phép đang bị kê biên là đầy đủ, đúng bản chất vụ án và giá trị của nó được xác định tại thời điểm các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là đúng pháp luật.
Vụ thứ hai là vụ Trần Văn Minh và các bị cáo phạm tội vi phạm quy định về sử dụng, quản lý tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí và vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Trong vụ án này, cả bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội số 20 ngày 13/1/2020 và bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội số 158 ngày 12/5/2020 lại xác định trị giá tài sản thiệt hại tại thời điểm khởi tố vụ án, tức là thời điểm năm 2018. Tóm lại, 2 vụ án đều được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử đều liên quan tới 3 tài sản của Nhà nước tại thành phố Đà Nẵng. Một là, nhà đất số 319 đường Lê Duẩn. Hai là, dự án vệt ven biển đường Trường Sa và ba là đất công viên An Đồn cũ nhưng lại không thống nhất trong cách xác định trị giá thiệt hại của tài sản. Một vụ thì trị giá thiệt hại xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, còn một vụ thì trị giá thiệt hại xác định tại thời điểm khởi tố vụ án, trong khi Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 14 trước thời điểm xét xử vụ án Trần Văn Minh và đồng phạm là đã xác định thiệt hại phải được tính từ thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.
Tại phiên họp thứ 21 ngày 20/3/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trả lời chất vấn của tôi, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tái khẳng định theo quy định của luật hiện hành cũng như nguyên tắc khoa học pháp lý, hậu quả của các vụ án được xác định tại thời điểm phạm tội. Tất cả tình tiết khách quan, động cơ, mục đích hành vi và ngay cả thủ đoạn cũng phải được tính ở cùng thời điểm. Nếu tính hậu quả hành vi vi phạm ở thời điểm khác thì không bảo đảm tính khoa học. Tôi đã tranh luận lại về tình trạng áp dụng pháp luật thiếu thống nhất và minh chứng bằng những bản án cụ thể. Chánh án trả lời là do không có bản án trong tay nên chưa thể trả lời đại biểu ngay nhưng sẽ kiểm tra cụ thể để trả lời.
Tuy nhiên, sau khi ban hành nghị quyết hướng dẫn thì chúng tôi đều xác định thời điểm tính giá trị thiệt hại là tại thời điểm phạm tội, nhưng sau phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong thư trả lời chất vấn của tôi ghi ngày 29/3/2023, Chánh án cho rằng những vụ án này đã xét xử đúng pháp luật, được dư luận Nhân dân đồng tình đánh giá cao. Theo tôi ý kiến này không thuyết phục bởi vì cùng tài sản ấy, cùng Tòa án ấy nhưng mỗi vụ án lại tùy nghi xác định thiệt hại tại một thời điểm khác nhau là trái với khoa học pháp lý và luật hiện hành như Chánh án đã từng trả lời.
Tại diễn đàn này, tôi trân trọng đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trả lời cho đại biểu Quốc hội và cử tri được biết.
Thứ nhất, vì sao tòa án lại áp dụng không thống nhất việc xác định trị giá tài sản thiệt hại đối với 3 tài sản Nhà nước ở 2 vụ án nói trên.
Thứ hai, quyết định Giám đốc thẩm số 14 khẳng định rằng bản án phúc thẩm số 346 đã xử đúng thì bản án phúc thẩm số 158 có sự sai quy định của pháp luật về việc xác định trị giá tài sản thiệt hại hay không?
Vì thời gian có hạn, tôi chỉ xin lấy một ví dụ tính giá trị thiệt hại một trong 3 tài sản, Ví dụ như đất công viên An Đồn, bản án phúc thẩm số 346 xác định giá trị thiệt hại tại thời điểm vi phạm năm 2010 chỉ có 32 tỷ 875 triệu đồng nhưng bản án phúc thẩm số 158 lại tính giá trị thiệt hại tại thời điểm khởi tố vụ án, tức là thời điểm năm 2018 giá trị là 167 tỷ 600 triệu đồng, gấp hơn 5 lần.
Thứ ba, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần làm gì để bảo đảm sự thống nhất, công bằng, khách quan trong việc xét xử 2 vụ án nêu trên, tạo niềm tin cho cử tri về sự công minh của pháp luật?".
Trả lời nội dung đại biểu quan tâm, Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Hòa Bình cho biết: “Cơ sở khoa học của việc xác định hậu quả của một hành vi phạm tội, tại sao phải xác định ở thời điểm phạm tội vì mấy lý do như sau:
Một là, tất cả các yếu tố cấu thành tội phạm đều phải được xác định ở một thời điểm, đó là thời điểm sự kiện phạm tội xảy ra, không thể có việc hành vi động cơ, mục đích, thủ đoạn xác định ở thời điểm sự kiện phạm tội xảy ra còn hậu quả thì để vài ba năm sau khi khởi tố mới xác định, điều đó là không công bằng.
Thứ hai, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra cho xã hội phải do chính hành vi đó gây ra chứ không phải do các yếu tố bên ngoài. Việc một lô đất tăng giá ở năm này ví dụ là 100 tỷ, sang năm lên 200 tỷ, sang năm nữa lên 300 tỷ, đó là do thị trường chứ không phải do hành vi phạm tội gây ra. Nếu như chúng ta xác định đất như thế thì trong thực tế sẽ có những bất cập khác, ví dụ đối với những vụ buôn lậu, hối lộ hay trộm cắp, tham ô điện thoại, máy tính chẳng hạn, đất thì tăng theo thời gian, còn máy tính thì lại giảm theo thời gian, cho nên nếu như tính như vậy thì một loại tội sẽ tăng còn một loại tội sẽ giảm, điều này là không hợp lý.
Thứ ba, hành lang pháp lý, theo yêu cầu Quốc hội, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có một nghị quyết hướng dẫn và tất cả các vụ án sẽ phải xử xác định hậu quả thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, không phải là ở thời điểm phát hiện. Bởi vì có thể nhiều năm sau chúng ta mới phát hiện, không thể lấy nhiều năm sau để xác định được thời điểm phạm tội, hành lang pháp lý là như vậy. Những vụ án mà xảy ra trước khi có nghị quyết của Hội đồng thẩm phán mà trái với Nghị quyết Hội đồng thẩm phán, không đúng thì sẽ phải xem xét lại.
Đại biểu có đưa ra vụ án, trình tự xem xét lại những vụ án đã xác định không đúng thời điểm gây hậu quả của hành vi phạm tội thì theo trình tự của luật định, đại biểu có đề nghị là Tòa án phải làm cái này, làm cái khác, xem xét lại một vụ án có điều kiện của nó và điều kiện đó được ghi trong luật. Muốn xem xét lại đề nghị đại biểu làm đúng quy định như vậy, còn chúng tôi không thể căn cứ vào ý kiến phát biểu tại hội trường hay là của ai đó mà xem xét lại, việc này không đúng trình tự tố tụng”.