Chính quyền kiến tạo và năng lực "mở đường" đưa Quảng Ninh trở thành "ngôi sao" thu hút đầu tư
11 tháng năm 2025, Quảng Ninh ghi nhận sự bứt phá mạnh mẽ trong thu hút đầu tư, khi tổng vốn đầu tư trong nước đạt trên 240.000 tỷ đồng, gấp 7,9 lần so với năm 2024. Trong đó, 100 dự án mới có tổng vốn đăng ký gần 185.000 tỷ đồng; 221 dự án điều chỉnh với phần vốn tăng thêm xấp xỉ 56.000 tỷ đồng. Dự kiến trong tháng 12/2025, tỉnh sẽ tiếp tục hoàn thiện thủ tục thẩm định chủ trương đầu tư đối với nhiều dự án trọng điểm, với tổng vốn dự kiến khoảng 263.053 tỷ đồng. Tính chung cả năm, tổng vốn đầu tư ngoài ngân sách của Quảng Ninh ước vượt 500.000 tỷ đồng, gấp 16,74 lần so với năm 2024.
Ngoài việc mở ra dư địa tăng trưởng mới cho Quảng Ninh trong năm 2025, những kết quả nói trên còn cho thấy năng lực “mở đường”, dẫn dắt dòng vốn đầu tư quy mô lớn, dài hạn của chính quyền địa phương.
Không dừng lại ở các con số, kết quả thu hút đầu tư đã cụ thể hóa thông qua 31 công trình, dự án đồng loạt khánh thành, khởi công trên địa bàn tỉnh, ngày 19/12 vừa qua. Với tổng mức đầu tư gần 390.000 tỷ đồng, các dự án trải rộng trên nhiều lĩnh vực như hạ tầng giao thông, đô thị, công nghiệp, dịch vụ, y tế, giáo dục và du lịch, vừa mang ý nghĩa chính trị - xã hội, vừa tạo nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế dài hạn của tỉnh.
Mặt khác, khả năng triển khai đồng thời nhiều dự án quy mô lớn, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch - nghỉ dưỡng, cho thấy năng lực tiếp nhận, điều phối và dẫn dắt dự án của Quảng Ninh không chỉ dựa vào lợi thế tài nguyên, mà còn bắt nguồn từ chất lượng môi trường đầu tư. Với các dự án hàng chục nghìn tỷ đồng, thì sự ổn định trong chính sách, nhất quán trong quy hoạch và năng lực đồng hành của chính quyền là điều kiện tiên quyết để nhà đầu tư lớn lựa chọn và gắn bó lâu dài.
Nhìn lại hơn một thập kỷ phát triển cho thấy, cải cách hành chính và tư duy hạ tầng “đi trước một bước” luôn được Quảng Ninh xác định là khâu đột phá xuyên suốt qua nhiều nhiệm kỳ. Cùng với đó, cách tiếp cận trong xúc tiến đầu tư cũng chuyển từ “trải thảm” sang chọn lọc, ưu tiên các dự án có quy mô, chất lượng và sức lan tỏa cao, phù hợp với định hướng phát triển dài hạn.
Theo TS. Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới, chính sự nhất quán trong tư duy kiến tạo, cùng năng lực điều hành và môi trường đầu tư - kinh doanh ổn định đã giúp Quảng Ninh trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, trong đó nổi bật là các dự án du lịch - nghỉ dưỡng quy mô lớn.
PV: 11 tháng năm 2025, Quảng Ninh thu hút trên 240.000 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước, gấp 7,9 lần năm 2024, và ước cả năm vượt 500.000 tỷ đồng. Ngày 19/12 vừa qua, tỉnh cũng đồng loạt khởi công, khánh thành 31 dự án, công trình, nhiều nhất cả nước, trong đó có các dự án du lịch - nghỉ dưỡng quy mô lớn. Những con số đó cho thấy điều gì thưa ông?
TS. Lê Xuân Sang: Tôi cho rằng, năng lực tổ chức phát triển và mức độ sẵn sàng tiếp nhận dòng vốn dài hạn của tỉnh Quảng Ninh đã đạt “độ chín” nhất định để tự tin đón dòng vốn đầu tư lớn. Đây cũng là kết quả của cả quá trình nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh mà tỉnh đã kiên trì thực hiện trong nhiều năm qua.
Trước hết, Quảng Ninh đã tạo dựng được nền tảng tương đối vững chắc về môi trường kinh doanh. Tỉnh liên tục nằm trong nhóm địa phương dẫn đầu cả nước về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; năm 2024 cũng đạt 73,2 điểm PCI, đứng thứ hai cả nước.
Quảng Ninh duy trì được tăng trưởng GRDP cao trong nhiều năm liền. Năm 2025, tăng trưởng GRDP của tỉnh ước đạt gần 12%, lần đầu tiên dẫn đầu cả nước trong tăng trưởng kinh tế và cũng là mức cao nhất từ trước tới nay tại địa phương này. Kết quả này cho thấy nền kinh tế tỉnh có sức chống chịu tốt và dư địa phát triển đủ lớn để hấp thụ các dòng vốn đầu tư dài hạn.
Song song với tăng trưởng kinh tế, Quảng Ninh đạt nhiều kết quả tích cực ở các chỉ số về môi trường xanh, đổi mới sáng tạo và chất lượng điều hành. Năm 2023, tỉnh dẫn đầu cả nước về Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) với tổng điểm 26 điểm ở cả bốn chỉ số thành phần. Sang năm 2024, Quảng Ninh tiếp tục nằm trong nhóm 30 địa phương được xếp hạng PGI, đứng thứ 16 với số điểm trên 26, cho thấy tỉnh đã nỗ lực nhất quán trong thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Ví dụ, Quảng Ninh đã và đang đẩy mạnh chiến lược "xanh hóa" nền kinh tế, đặc biệt trong các lĩnh vực khai khoáng và công nghiệp truyền thống. Hình ảnh vùng đất mỏ gắn với ô nhiễm môi trường trong quá khứ được thay thế hoàn toàn bằng hình ảnh Quảng Ninh xanh sạch hôm nay. Để có bước chuyển đổi lớn như thế, tôi cho là chính quyền tỉnh qua các thời kỳ đã rất nỗ lực cải cách.
Đáng nói, các cải thiện về môi trường đầu tư không tách rời khỏi tư duy chủ động của Quảng Ninh trong phát triển kết cấu hạ tầng. Với đặc điểm địa lý hiếm có, hội tụ núi rừng, sông biển, di sản thiên nhiên, tài nguyên khoáng sản và vị trí tiếp giáp trực tiếp với Trung Quốc cả trên bộ lẫn trên biển, Quảng Ninh có thể xem như một "Việt Nam thu nhỏ". Trên nền tảng đó, chính quyền tỉnh đã chủ động khai thác lợi thế địa kinh tế để thúc đẩy hội nhập.
Nhưng tôi đánh giá cao việc Quảng Ninh không tự thoả mãn với những kết quả đạt được, mà tiếp tục thúc đẩy để GRDP của tỉnh liên tục nằm trong nhóm cao nhất cả nước; các chỉ số về môi trường kinh doanh, phát triển xanh và quản trị công cũng luôn được duy trì ở mức cao trong nhiều năm liên tiếp.
PV: Đúng là Quảng Ninh thường được nhắc tới như một “ngôi sao cải cách” trong điều hành kinh tế cấp tỉnh. Nhìn lại chặng đường cải cách kéo dài hơn một thập kỷ, đặc biệt từ sau dấu mốc Quảng Ninh vươn lên dẫn đầu PCI năm 2017, theo ông, mô hình chính quyền kiến tạo của tỉnh đã được hình thành và vận hành như thế nào để tạo dựng niềm tin dài hạn cho các nhà đầu tư, nhất là thu hút được các dự án du lịch - nghỉ dưỡng quy mô lớn?
TS. Lê Xuân Sang: Có thể thấy sự bứt phá của Quảng Ninh không phải là kết quả của một vài quyết sách riêng lẻ. Đó là thành quả tích lũy của hơn một thập kỷ kiên trì xây dựng mô hình chính quyền kiến tạo phát triển.
Từ năm 2014 đến nay, tỉnh đã theo đuổi một hướng đi khá nhất quán: Đặt cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp làm trục xuyên suốt trong chính sách điều hành. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (nhiệm kỳ 2020 - 2025), Quảng Ninh là một trong số ít địa phương đưa mục tiêu duy trì vị trí nhóm đầu cả nước về các chỉ số điều hành như: PCI, PAR Index, SIPAS, PAPI vào văn kiện Đại hội. Điều này cho thấy cải cách đã trở thành cam kết chính trị ở cấp cao nhất của tỉnh.
(ĐVT: Điểm - Nguồn: Thống kê theo VCCI)
Như vậy, mô hình chính quyền kiến tạo của Quảng Ninh được triển khai bài bản và sớm hơn nhiều địa phương khác. Việc thành lập hệ thống trung tâm hành chính công từ tỉnh đến cơ sở, xây dựng cơ quan xúc tiến và hỗ trợ đầu tư chuyên trách, chủ động cắt giảm và minh bạch hóa thủ tục hành chính, phát triển chính quyền điện tử và chuyển đổi số… đã giúp rút ngắn khoảng cách giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp. Song song với đó, các công cụ điều hành mới như bộ chỉ số DDCI hay các kênh tương tác trực tiếp với doanh nghiệp đã góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình và chất lượng thực thi ở từng cấp.
Ở tầm dài hạn hơn, tư duy kiến tạo của Quảng Ninh còn thể hiện ở cách chủ động thiết kế không gian phát triển. Việc sớm lập đồng bộ các quy hoạch chiến lược với tầm nhìn dài hạn, khoa học, cùng với cách tiếp cận “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư” trong triển khai các dự án PPP, đã tạo ra nền tảng hạ tầng đồng bộ và làm gia tăng giá trị của cả nguồn lực công lẫn tư. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư dài hạn trong lĩnh vực du lịch - nghỉ dưỡng.
PV: Trong hoạt động xúc tiến đầu tư, có thể nhận thấy Quảng Ninh không chỉ quảng bá tiềm năng, mà còn chủ động xây dựng hình ảnh một địa phương cởi mở, sẵn sàng đón nhận và đồng hành cùng những ý tưởng, khát vọng phát triển của doanh nghiệp. Từ góc nhìn của ông, cách tiếp cận này có ý nghĩa như thế nào trong việc tạo dựng niềm tin và khuyến khích doanh nghiệp gắn bó lâu dài với địa phương?
TS. Lê Xuân Sang: Tôi cho là, chính sự cởi mở, chủ động và hết lòng đồng hành với nhà đầu tư, coi thành công của doanh nghiệp là thành công của tỉnh, đã không chỉ tạo thuận lợi về thủ tục hay môi trường kinh doanh, mà còn trở thành động lực tinh thần, nguồn cảm hứng để các nhà đầu tư yên tâm gắn bó, sẵn sàng cùng chính quyền địa phương xây dựng, phát triển kinh tế tỉnh nhà.
Thực tế, trong năm qua, Quảng Ninh đã trực tiếp chủ trì hoặc phối hợp tổ chức nhiều hội nghị, diễn đàn xúc tiến đầu tư quy mô lớn, cho thấy tỉnh rất chủ động, cởi mở và cầu thị với nhà đầu tư. Việc tổ chức lại Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư thành Ban Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Quảng Ninh cũng giúp bảo đảm tính liên thông trong chuỗi xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch. Đồng thời, hình thành một đầu mối chiến lược có khả năng tiếp cận, hỗ trợ và đồng hành với nhà đầu tư trong suốt quá trình triển khai dự án. Nhà đầu tư đến với Quảng Ninh sẽ yên tâm là không đi một mình, mà luôn có chính quyền sát cánh.


Quảng Ninh đã trực tiếp chủ trì hoặc phối hợp tổ chức nhiều hội nghị, diễn đàn xúc tiến đầu tư quy mô lớn trong và ngoài nước.
Đồng thời, Quảng Ninh đang thể hiện rất rõ sự chuyển hướng trong thu hút đầu tư, ưu tiên dòng vốn chất lượng cao và bền vững. Tỉnh đã và đang tập trung thu hút FDI thế hệ mới, tài chính xanh, các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại và có tác động lan tỏa, đặc biệt là các khu công nghiệp sinh thái - thông minh, trung tâm đổi mới sáng tạo, logistics và hạ tầng chiến lược.
Cách tiếp cận này cho thấy chính quyền không chỉ “tìm dự án”, mà chủ động định hình cấu trúc phát triển dài hạn của tỉnh. Kết quả, 11 tháng năm 2025, Quảng Ninh thu hút tổng vốn đầu tư trong nước đạt trên 240.000 tỷ đồng, gấp gần 8 lần so với năm 2024. Dự kiến ngay tháng 12/2025, tỉnh sẽ tiếp tục hoàn thiện thủ tục thẩm định chủ trương đầu tư cho nhiều dự án, tổng vốn đầu tư khoảng hơn 263.000 tỷ đồng. Tính chung cả năm, tổng vốn đầu tư ngoài ngân sách của Quảng Ninh ước vượt 500.000 tỷ đồng, gấp gần 17 lần so với năm 2024. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI năm 2025 đạt hơn 528 triệu USD, với nhiều dự án được cấp mới và điều chỉnh tăng vốn để mở rộng quy mô. Những điều đó cho thấy niềm tin của nhà đầu tư vẫn tiếp tục được củng cố khi triển khai thực tế.
Có thể khẳng định, sự chuyển mình mạnh mẽ của Quảng Ninh gắn chặt với tinh thần “tiên phong”, tiên phong trong kết hợp cải cách thể chế, đầu tư hạ tầng, chuyển đổi xanh và đổi mới sáng tạo trong phát triển du lịch. Cùng với đó, là tinh thần chính quyền kiến tạo cởi mở, khơi dậy cảm hứng đồng hành, để các nhà đầu tư lớn sẵn sàng gắn bó lâu dài và tiếp tục mở rộng đầu tư, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch - nghỉ dưỡng - lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn, nhưng thời gian thu hồi vốn là lâu dài và cũng là lĩnh vực cần nhiều cảm hứng đồng hành, gắn bó nhất.
Nếu tiếp tục làm tốt công tác xúc tiến đầu tư, truyền thông chính sách và giữ vững định hướng phát triển bền vững, thị trường du lịch và bất động sản nghỉ dưỡng của Quảng Ninh hoàn toàn có nhiều cơ hội phát triển tương xứng với tiềm năng và vị thế vốn có.
PV: Thực tế cho thấy Quảng Ninh đã đầu tư mạnh cho hạ tầng trong quá trình phát triển, đồng thời thu hút nhiều dự án du lịch - nghỉ dưỡng quy mô lớn. Ông nhìn nhận như thế nào về tư duy “hạ tầng đi trước” của Quảng Ninh trong việc mở rộng không gian phát triển và dẫn dắt dòng vốn đầu tư?
TS. Lê Xuân Sang: Tư duy “hạ tầng đi trước” của Quảng Ninh thể hiện rõ ở việc tỉnh chủ động đầu tư đồng bộ hạ tầng then chốt, như hệ thống cao tốc Hạ Long - Hải Phòng, Hạ Long - Vân Đồn, Vân Đồn - Móng Cái; Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn; Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long; cùng các trục giao thông ven biển và hạ tầng đô thị mới.
Cùng với đó, Quảng Ninh đã mở rộng các tuyến du lịch đường biển, đường bộ và đường hàng không, đặc biệt là các đường bay kết nối từ Trung Quốc, Hàn Quốc đến Cảng Hàng không quốc tế Vân Đồn, cũng như các tuyến tàu biển quốc tế đến Hạ Long.
Sự nỗ lực của chính quyền đã giải quyết bài toán giao thông, kết nối, vừa tái cấu trúc không gian phát triển, mở ra những vùng động lực mới cho kinh tế, du lịch và dịch vụ. Chẳng hạn, việc nâng cấp sân bay quốc tế Vân Đồn ngoài việc đáp ứng nhu cầu hiện hữu, thì mục tiêu cao hơn là định vị lại Vân Đồn trong bản đồ du lịch và đầu tư quốc tế, tạo điều kiện tiếp cận trực tiếp các thị trường cao cấp. Hệ thống cao tốc kết nối Quảng Ninh với Hà Nội và các trung tâm kinh tế phía Bắc cũng rút ngắn đáng kể thời gian di chuyển, làm thay đổi hoàn toàn khả năng tiếp cận thị trường khách và nhà đầu tư.




Hệ thống cao tốc, cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, cảng tàu khách quốc tế Hạ Long cùng các trục giao thông ven biển đã mở ra những vùng động lực mới cho kinh tế, du lịch và dịch vụ.
Khi hạ tầng được chuẩn bị đầy đủ, nhà đầu tư có thể tập trung vào chất lượng sản phẩm, mô hình kinh doanh và trải nghiệm, chứ không lo phải “gánh” thêm rủi ro về kết nối hay chi phí đầu vào. Điều này đặc biệt quan trọng với các dự án du lịch - nghỉ dưỡng có vòng đời dài, yêu cầu vốn lớn và tầm nhìn nhiều thập kỷ.
PV: Từ thực tiễn phát triển hạ tầng và không gian kinh tế, ông nhìn nhận như thế nào về năng lực “mở đường” của chính quyền Quảng Ninh trong việc dẫn dắt phát triển và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư dài hạn?
TS. Lê Xuân Sang: Năng lực “mở đường” của Quảng Ninh thì đã rõ, và điểm chính không nằm ở số lượng hay quy mô công trình, mà ở năng lực tổ chức thực hiện và điều phối phát triển của chính quyền địa phương. Đây chính là biểu hiện rõ nét của mô hình “chính quyền kiến tạo” mà Quảng Ninh theo đuổi trong nhiều năm qua.
Tại Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỉnh xác định “Ưu tiên xây dựng đồng bộ và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng đa mục tiêu, nhằm bảo đảm “lợi ích kép” trong phát triển”; “tận dụng tối đa lợi thế cạnh tranh mang lại nhờ hệ thống kết cấu hạ tầng động lực về kinh tế - xã hội ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, hiện đại, hội nhập sâu rộng”.
Báo cáo của UBND tỉnh cho thấy, giai đoạn 2021 - 2025, tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Quảng Ninh ước đạt trên 490.000 tỷ đồng, trong đó hạ tầng giao thông, logistics và dịch vụ giữ vai trò trụ cột, tạo “mạch máu” kết nối toàn tỉnh và liên vùng. Hệ thống cao tốc liên hoàn Hải Phòng - Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái; cảng biển, sân bay và cửa khẩu quốc tế đã định hình lại không gian phát triển và trở thành động lực thu hút đầu tư của tỉnh.
Quảng Ninh cũng là một trong những địa phương đi đầu trong việc sử dụng đầu tư công như “vốn mồi” để kích hoạt nguồn lực đầu tư tư nhân. Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn là sân bay đầu tiên ở Việt Nam được đầu tư hoàn toàn bằng vốn doanh nghiệp. Hay hệ thống cao tốc liên hoàn Hải Phòng - Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái; Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long, đã đưa Quảng Ninh đến gần hơn với du khách nội địa và quốc tế; góp phần đưa Quảng Ninh từ một địa phương có hạ tầng hạn chế trở thành một cực tăng trưởng quan trọng ở phía Bắc.
Ngoài ra, tỉnh cũng chủ động đầu tư các công trình mang tính biểu tượng và dài hạn, như hệ thống cầu vượt vịnh, hạ tầng ven vịnh Cửa Lục hay các tuyến đường bao biển, cho thấy tầm nhìn vượt ra ngoài nhiệm kỳ. Đây không phải là những dự án “ăn theo” thị trường ngắn hạn, mà là những lựa chọn có tính toán về cấu trúc đô thị, cảnh quan và giá trị không gian trong nhiều thập kỷ tới.
Những dự án này cho thấy chính quyền Quảng Ninh đã chủ động mở “đường băng” hạ tầng, chủ động thiết kế không gian phát triển, để doanh nghiệp có cơ hội đầu tư, đóng góp cho sự phát triển của tỉnh.
PV: Quảng Ninh “mở đường” nhưng không mở cửa cho mọi dự án, mà tỉnh đang chủ động thiết kế không gian phát triển để dẫn dắt và sàng lọc dòng vốn. Theo ông, tư duy này đã và đang tác động như thế nào tới việc thu hút các nhà đầu tư du lịch - nghỉ dưỡng quy mô lớn, dài hạn và nâng chất lượng tăng trưởng của tỉnh?
TS. Lê Xuân Sang: Tôi cho rằng tư duy “mở đường nhưng không mở cửa cho mọi dự án” đã tạo ra một khác biệt rất rõ trong cách Quảng Ninh thu hút đầu tư. Không chạy theo số lượng dự án, địa phương đã chuyển sang kiến tạo không gian phát triển thông qua quy hoạch, hạ tầng và cấu trúc cảnh quan, từ đó chủ động dẫn dắt và sàng lọc dòng vốn.
Cách tiếp cận này được thể hiện nhất quán trong Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, với định hướng tận dụng lợi thế hạ tầng động lực, tổ chức không gian phát triển theo mô hình “một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phá, ba vùng động lực”. Trên nền tảng đó, các hành lang kinh tế, hành lang đô thị gắn với giao thông được hình thành, mở rộng dư địa phát triển và nâng cao khả năng hấp thụ các dự án quy mô lớn, dài hạn.
Đồng thời, quy hoạch cũng đặt ra yêu cầu rõ ràng về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường và bản sắc văn hóa, cho thấy Quảng Ninh không chỉ thu hút đầu tư, mà còn xác lập khung quản trị cho tăng trưởng bền vững. Vì vậy, các dự án du lịch - nghỉ dưỡng quy mô lớn được lựa chọn không đơn giản là dự án kinh doanh, mà trở thành những “cực tăng trưởng” phù hợp với chiến lược dài hạn của địa phương.
Theo cách đó, Quảng Ninh không chỉ thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn, mà quan trọng hơn là nâng dần chất lượng dòng vốn, hướng tới sự đồng hành lâu dài và qua đó nâng cao chất lượng tăng trưởng bền vững của toàn tỉnh.
PV: Quảng Ninh đã chủ động mở không gian phát triển bằng tư duy hạ tầng “đi trước một bước” và quy hoạch đồng bộ, nhưng để việc khai thác tối ưu giá trị của di sản thì còn cần những yếu tố khác. Trong thực tiễn phát triển, những lợi thế tự nhiên và di sản nếu thiếu tầm nhìn và cách tiếp cận phù hợp rất dễ trở thành lực cản, thậm chí “ghìm chân” quá trình phát triển. Từ góc độ đó, ông nhìn nhận như thế nào về năng lực và tầm nhìn của chính quyền Quảng Ninh trong việc nâng tầm, phát huy giá trị di sản?
TS. Lê Xuân Sang: Việc sở hữu các Di sản thế giới như Vịnh Hạ Long và Yên Tử mang lại cho Quảng Ninh lợi thế rất lớn, nhưng di sản tự thân chưa đủ để trở thành động lực tăng trưởng bền vững. Yếu tố mang tính quyết định nằm ở cách chính quyền địa phương tổ chức không gian phát triển, hài hòa giữa bảo tồn và khai thác. Khi di sản được đặt trong một cấu trúc không gian hợp lý, gắn với hạ tầng, sản phẩm du lịch chất lượng cao và các dịch vụ hỗ trợ đồng bộ, giá trị của di sản sẽ được lan tỏa ra ngoài phạm vi điểm đến, tạo động lực cho toàn bộ hệ sinh thái du lịch và dịch vụ.
Cách làm của Quảng Ninh là mở rộng không gian du lịch từ các điểm di sản lõi ra toàn vùng, thông qua hạ tầng kết nối, quy hoạch đa trung tâm và hệ thống sản phẩm du lịch bổ trợ. Địa phương không tập trung dòng khách vào một vài điểm di sản, mà chủ động kết nối di sản với các khu du lịch - nghỉ dưỡng, đô thị và dịch vụ mới, qua đó phân bổ lại không gian khai thác.
Nhờ cách tiếp cận này, du khách không chỉ tham quan di sản mà còn lưu trú dài ngày, sử dụng các dịch vụ chất lượng cao, góp phần nâng giá trị gia tăng của ngành du lịch. Đồng thời, áp lực lên các khu di sản trọng điểm được giảm bớt, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bảo tồn. Quan trọng hơn, nhờ vậy mà tăng trưởng du lịch cũng từng bước chuyển sang chiều sâu, bảo đảm hài hòa giữa hiệu quả kinh tế, bảo tồn di sản và phát triển bền vững trong dài hạn.
Có một điểm lưu ý, bảo tồn không phải lúc nào cũng hiểu theo nghĩa giữ nguyên di sản. Quảng Ninh hay Ninh Bình, với những hệ thống núi đá, hang động và cảnh quan đặc thù, hoàn toàn có thể xây dựng các công trình văn hóa - tâm linh, du lịch trong lòng núi. Sẽ cần công nghệ và rất tốn kém, nhưng các nước như Trung Quốc hay Ấn Độ đều đã làm. Để đồng thời tạo ra sản phẩm du lịch mới, nâng cao sức hấp dẫn của di sản, nhưng cũng đáp ứng nhu cầu vật liệu đầu vào cho đầu tư công mà vẫn bảo đảm các yêu cầu về bảo tồn, môi trường và phát triển bền vững.
PV: Nhìn từ thực tiễn phát triển những năm gần đây, Quảng Ninh không dừng lại ở khai thác du lịch đơn điểm, mà hướng tới hình thành hệ sinh thái du lịch - nghỉ dưỡng cao cấp. Ông đánh giá như thế nào về sự chuyển dịch này?
TS. Lê Xuân Sang: Có thể thấy, Quảng Ninh đang đi từ mô hình tham quan di sản theo điểm sang mô hình hệ sinh thái du lịch - nghỉ dưỡng - giải trí - sự kiện. Kết quả, ngành du lịch gia tăng cả số khách, lẫn doanh thu và mức chi tiêu. Năm 2024 tỉnh đón khoảng 19 triệu lượt khách, tổng thu du lịch ước 46.460 tỷ đồng. Năm 2025, du lịch tiếp tục bứt phá, tăng lên khoảng 21,28 triệu lượt khách, khách quốc tế ước 4,5 triệu, tổng thu ước 57.000 tỷ đồng. Báo cáo 7 tháng 2025 cũng cho thấy chi tiêu bình quân đạt khoảng 2,75 triệu đồng/lượt, phản ánh xu hướng nâng chất lượng tiêu dùng du lịch.
Thứ hai, sự chuyển dịch này được “nâng đỡ” bởi hạ tầng và các tổ hợp dịch vụ quy mô lớn. Hệ thống kết nối cao tốc Hạ Long - Hải Phòng, Hạ Long - Vân Đồn, Vân Đồn - Móng Cái, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn và Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long như tôi nói ở trên đã tạo điều kiện kéo gần thị trường khách và nhà đầu tư, đồng thời mở rộng không gian phát triển sang các cực mới.
Ở cấp độ sản phẩm, các dự án lưu trú - nghỉ dưỡng - hội nghị quy mô lớn đóng vai trò quan trọng trong việc giữ chân du khách. Nhất là Đặc khu Vân Đồn, là nơi được định vị là trung tâm đón dòng khách quốc tế, có thể thấy rõ cách tiếp cận phát triển hệ sinh thái du lịch - nghỉ dưỡng theo hướng đồng bộ, bài bản thông qua các dự án quy mô lớn.
Ví dụ, ngày 19/12 vừa qua, Tổ hợp du lịch, nghỉ dưỡng và giải trí 5 sao Crystal Holidays Harbour Vân Đồn (Everland Vân Đồn) đã khánh thành giai đoạn 1, với gần 1.000 phòng lưu trú tiêu chuẩn 5 sao đã được đưa vào khai thác.


Tổ hợp du lịch, nghỉ dưỡng và giải trí 5 sao Crystal Holidays Harbour Vân Đồn (Everland Vân Đồn) đã khánh thành giai đoạn 1, ngày 19/12.
Dự án còn 3 tòa tháp và Trung tâm hội nghị quốc tế 1.500 chỗ, được tích hợp hệ thống dịch vụ khép kín từ thương mại, mua sắm, ẩm thực, giải trí đến bến du thuyền và các tiện ích nghỉ dưỡng, nâng cao trải nghiệm nghỉ dưỡng và khả năng thu hút du khách lưu trú dài ngày.
Sun Group cũng khởi công dự án Khu dịch vụ du lịch phức hợp cao cấp tại Khu kinh tế Vân Đồn, tổng vốn đầu tư 51.000 tỷ đồng. Tổ hợp du lịch nghỉ dưỡng - giải trí cao cấp, sân gôn và khu dân cư Monbay Vân Đồn, vốn đầu tư 25.000 tỷ đồng cũng khởi công dịp này.


Ngày 19/12, Sun Group khởi công dự án Khu dịch vụ du lịch phức hợp cao cấp tại Khu kinh tế Vân Đồn.
Hay Khu tổ hợp nghỉ dưỡng Sonasea Vân Đồn Harbor City, được quy hoạch trên diện tích khoảng 358,3 ha do CEO Group phát triển, với định hướng tích hợp các phân khu chức năng như nghỉ dưỡng, giải trí, dịch vụ cao cấp, gắn với khu vực sân golf và các tiện ích bổ trợ. Trong hệ sinh thái này, khu nghỉ dưỡng 5 sao mang thương hiệu quốc tế đầu tiên Wyndham Garden Sonasea Vân Đồn sau hơn một năm vận hành đã đón khoảng 100.000 lượt khách đến từ gần 50 quốc gia. Cũng trong hệ sinh thái này, chủ trương đầu tư khu dịch vụ du lịch có casino quy mô 2 tỷ USD đã được chấp thuận.


Khu nghỉ dưỡng 5 sao mang thương hiệu quốc tế đầu tiên Wyndham Garden Sonasea Vân Đồn (thuộc tổ hợp nghỉ dưỡng Sonasea Vân Đồn Harbor City) đã đi vào hoạt động từ tháng 4/2024. Các dự án thành phần còn lại vẫn đang được chủ đầu tư triển khai.
Như vậy, khi các sản phẩm được kết nối thành chuỗi nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, hội nghị, mua sắm, trải nghiệm văn hóa, thì địa phương không chỉ tăng khách, mà còn tăng thời gian lưu trú, tăng chi tiêu, tăng doanh thu trên mỗi lượt khách. Đó mới là bản chất của chuyển dịch từ du lịch “đơn điểm” sang “hệ sinh thái” và là nền tảng để ngành du lịch tăng trưởng bền vững hơn.
PV: Vâng thưa ông, trong bối cảnh Quảng Ninh đang phát triển hệ sinh thái du lịch - nghỉ dưỡng cao cấp gắn với các giá trị di sản, theo ông, làm thế nào để các dự án này thực sự góp phần nâng tầm và làm giàu giá trị di sản, vừa tạo động lực kinh tế, vừa bảo đảm phát triển bền vững?
TS. Lê Xuân Sang: Tôi cho rằng, để di sản thực sự được “thăng hoa”, điều quan trọng nhất là phải đặt di sản vào một hệ sinh thái du lịch - dịch vụ đẳng cấp nhưng có chiều sâu, chứ không khai thác đơn lẻ. “Thăng hoa” ở đây không phải là khai thác mạnh hơn, mà là nâng tầm cách tiếp cận, để di sản vừa được bảo tồn tốt hơn, vừa tạo ra giá trị kinh tế và giá trị văn hóa bền vững hơn.
Trước hết, về tổ chức không gian phát triển, tôi rất đồng tình việc Quảng Ninh tiếp tục kiên định với mô hình phân bổ không gian du lịch đa trung tâm, kết nối các khu di sản với các vùng nghỉ dưỡng, đô thị và dịch vụ mới. Cách làm này giúp giảm áp lực lên các điểm di sản lõi, đồng thời mở rộng không gian trải nghiệm cho du khách, tạo điều kiện để giá trị di sản lan tỏa ra toàn vùng.
Về thiết kế sản phẩm, cần ưu tiên các sản phẩm du lịch chất lượng cao, gắn trải nghiệm nghỉ dưỡng, giải trí, hội nghị, văn hóa với chiều sâu di sản. Khi du khách không chỉ đến xem mà còn ở lại, cảm nhận và trải nghiệm, thì giá trị di sản sẽ được thăng hoa trong đời sống đương đại, chứ không chỉ tồn tại như một tài nguyên tĩnh.
Việc này nên có cơ chế sandbox khuyến khích tư nhân mạnh dạn thử nghiệm thiết kế sản phẩm. Tôi tin tinh thần đổi mới sáng tạo và công nghệ của doanh nghiệp tư nhân sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao trải nghiệm di sản. Họ có thể ứng dụng chuyển đổi số, công nghệ trình diễn hiện đại như trình diễn ánh sáng, drone, thực tế ảo (VR), để kể lại các câu chuyện về di sản, truyện cổ tích Việt Nam dưới dạng huyền thoại, tâm linh, văn hóa dân gian, là những cách làm mà Trung Quốc đã áp dụng thành công.
Ngoài việc nâng cao trải nghiệm du lịch, sự sáng tạo của tư nhân sẽ tạo thêm sinh kế cho cộng đồng địa phương, nhất là du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa gắn với bản sắc dân tộc.
Như vậy, khi được kết nối với hạ tầng, đô thị và các tổ hợp dịch vụ chất lượng cao, giá trị của di sản không dừng lại ở cảnh quan hay danh hiệu, mà tiếp tục được “thăng hoa” trong trải nghiệm và cảm nhận của du khách. Chính trong không gian phát triển mới ấy, các di sản vừa được bảo tồn tốt hơn, vừa cùng các giá trị tự nhiên - lịch sử - văn hóa của địa phương lan tỏa mạnh mẽ hơn, góp phần định hình rõ nét bản sắc điểm đến và nâng tầm vị thế của Quảng Ninh trên bản đồ du lịch quốc gia và quốc tế.
Xin cảm ơn những phân tích, nhận định rất tâm huyết của chuyên gia!
