Aa

Đâu là thách thức của ngành ngân hàng trong 6 tháng cuối năm 2021?

Chủ Nhật, 18/07/2021 - 06:00

Cơ hội luôn đi kèm cùng thách thức. Đợt bùng phát dịch thứ tư trong những tháng vừa qua đã nhắc nhở chúng ta về những thách thức rất lớn vẫn còn hiện hữu của ngành ngân hàng trong 6 tháng cuối năm 2021.

Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) vừa công bố danh sách Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021. Đây là hoạt động thường niên do Vietnam Report nghiên cứu và công bố từ năm 2012.

Theo đó, Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021 gồm có: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng TMCP Quân đội (MBBank), Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank), Ngân hàng TMCP Phát triển TP.HCM (HDBank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).

Top 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần tư nhân uy tín năm 2021 gồm có: Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank), Ngân hàng TMCP Phát triển TP.HCM (HDBank), Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB Bank), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank), Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB), Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) 

Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021
Top 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần tư nhân uy tín năm 2021

Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín được xây dựng dựa trên nguyên tắc khoa học và khách quan. Các công ty được đánh giá, xếp hạng dựa trên 3 tiêu chí chính:

(1) Năng lực tài chính thể hiện trên báo cáo tài chính năm gần nhất;

(2) Uy tín truyền thông được đánh giá bằng phương pháp Media Coding - mã hóa các bài viết về công ty trên các kênh truyền thông có ảnh hưởng;

(3) Khảo sát các đối tượng liên quan được thực hiện trong tháng 6 năm 2021.

4 ĐIỂM SÁNG NGÀNH NGÂN HÀNG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021

Báo cáo của Vietnam Report nhận định: Khi những dư âm của thiên tai, dịch bệnh từ năm 2020 vẫn còn tác động đến nền kinh tế, đến đầu năm 2021, dịch bệnh Covid-19 quay trở lại mang theo những biến thể mới, càn quét với cường độ mạnh hơn trong quý II/2021 tại nhiều tỉnh thành kinh tế trọng điểm của cả nước. Và cùng với khó khăn chung của nền kinh tế, ngành ngân hàng cũng gặp nhiều thách thức, nhưng vẫn có thể thấy những điểm sáng của ngành ngân hàng trong nửa đầu năm 2021.

Có 4 điểm sáng cơ bản của ngành ngân hàng đã được chỉ ra.

Điểm sáng thứ nhất, kết quả kinh doanh tăng trưởng mạnh mẽ so với cùng kỳ.

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2021, tính đến thời điểm 21/6, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 5,47%, tăng trưởng gấp hai lần so với cùng kỳ năm 2020. Bất chấp tác động của đại dịch, lợi nhuận của ngành ngân hàng vẫn tăng trưởng cao, có hơn chục ngân hàng ghi nhận lợi nhuận nghìn tỷ, chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu vẫn được kiểm soát tốt.

Dữ liệu của FiinGroup cho hay, tổng thu nhập hoạt động trong quý I/2021 tăng 28,4% so với cùng kỳ. Đầu tháng 7, một số ngân hàng công bố kết quả kinh doanh với sự bứt phá mạnh mẽ, dự báo sẽ có nhiều kỷ lục mới trong bức tranh lợi nhuận của ngành ngân hàng.

Những số liệu này cũng cho thấy gần như ngành ngân hàng đã bước được vào nền tăng trưởng mới với các yếu tố hỗ trợ như là lãi suất huy động ở mức thấp, trong khi lãi suất cho vay giảm chưa tương ứng, thêm vào đó nhiều ngân hàng còn huy động được lượng lớn trái phiếu kỳ hạn dài với lãi suất thấp, giúp cho biên lãi ròng của ngân hàng được cải thiện.

Điểm sáng thứ hai, sự ra đời của chính sách mới.

Cụ thể, đó là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các Bộ, ban ngành đối với sự phát triển tăng trưởng tín dụng thực chất của ngành ngân hàng và ban hành Thông tư 03/2021/TT-NHNN về việc cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn lãi vay do ảnh hưởng dịch Covid-19.

Các chuyên gia trong khảo sát của Vietnam Report đánh giá Thông tư 03 đối với các ngân hàng như “nắng hạn gặp mưa rào”, mang tính nhân văn đối với cả tổ chức tín dụng và bên đi vay. Nếu không có Thông tư 03, các ngân hàng sẽ phải trích lập rất mạnh mẽ các khoản nợ xấu trong năm nay nhưng với Thông tư này khoảng thời gian đã được giãn ra trong 3 năm. Việc trích lập dự phòng cụ thể tùy thuộc sự chịu ảnh hưởng từ chất lượng dự nợ cho vay của ngân hàng. Nhiều ngân hàng có dòng tiền ổn định đã chủ động trích lập dần trong từng quý để chuẩn bị “bộ đệm” lớn hơn cho dự phòng rủi ro có thể xảy ra.

Điểm sáng thứ ba, nhóm ngân hàng ghi nhận những câu chuyện về phát hành bán vốn, bán công ty con cho nước ngoài.

Giữa bối cảnh dịch bệnh bùng phát, mà gần như khối ngoại rút ra khỏi thị trường chứng khoán (TTCK), bán ròng rất mạnh mẽ, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn nhìn thấy được cơ hội trong các giao dịch tài sản của ngân hàng. Điển hình như trường hợp VPbank bán được 49% vốn của Fecredit cho tập đoàn của Nhật Bản, một kế hoạch khác trong tương lai như HDbank cũng bán mảng tín dụng cho ngân hàng nước ngoài.

Điểm sáng thứ tư, tài chính phi tín dụng tiếp tục được gia tăng.

Trong bối cảnh dịch bệnh, 6 tháng đầu năm 2021, nhóm ngân hàng tiếp tục tăng mạnh quy mô và tỷ trọng thu nhập phí dịch vụ, thu nhập ngoài lãi như bảo lãnh khách hàng, bão lãnh thư tín dụng (LC), thanh toán không dùng tiền mặt, liên kết với công ty bảo hiểm để bán chéo sản phẩm (Bancassurance), chứng khoán... Điều này giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) phát triển toàn diện hơn, không còn lệ thuộc vào chỉ tiêu tín dụng, đồng thời giảm thiểu rủi ro và cải thiện cơ cấu nguồn thu theo hướng bền vững.

Trên cơ sở đó, Vietnam Report nhìn nhận triển vọng tăng trưởng của ngành ngân hàng năm 2021 là khả quan nhưng không quá tích cực trước những lo ngại về diễn biến khó lường của đại dịch.

Kết quả khảo sát chuyên gia và ngân hàng của Vietnam Report trên thang Li-kert 5 điểm đã chỉ ra 3 yếu tố vĩ mô ảnh hưởng nhất đến kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng trong năm 2021, đó là: Một là sự bùng phát đại dịch trở lại trên diện rộng (4,73/5); Hai là sự phục hồi của kinh tế vĩ mô (4,55/5); Ba là chính sách, quy định của Nhà nước lĩnh vực Ngân hàng (4,36/5).

Trên khía cạnh vi mô, xét trong ngân hàng, 3 yếu tố ảnh hưởng nhất là: Khả năng áp dụng công nghệ số trong các dịch vụ ngân hàng (4,73/5); Hệ thống quản lý rủi ro và công tác kiểm soát nội bộ (4,64/5); Chất lượng sản phẩm, dịch vụ (4,55/5).

5 THÁCH THỨC CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG NĂM 2021

Ảnh minh họa.

Cơ hội luôn đi kèm cùng thách thức. Đợt bùng phát dịch thứ tư trong những tháng vừa qua, đã nhắc nhở chúng ta về những thách thức rất lớn vẫn còn hiện hữu trong năm nay. Kết quả khảo sát chuyên gia và ngân hàng của Vietnam Report cũng đã chỉ ra Top 5 thách thức đối với ngành ngân hàng trong năm 2021.

Một, diễn biến phức tạp của đại dịch và sự gia tăng nợ xấu.

Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 từ năm 2020 đã khiến nhiều doanh nghiệp bị thiệt hại nặng nề, thậm chí rơi vào tình trạng phá sản. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết trong 6 tháng đầu năm nay có 70,2 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể. Trong những tháng đầu năm, nợ xấu của toàn hệ thống không quá cao, chưa đến mức đáng lo ngại nhưng nó luôn hiên hữu và tiềm ẩn và có xu hướng gia tăng.

Đợt bùng phát lần thứ tư của dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh thành, trên cả nước mỗi ngày có hàng nghìn ca mắc mới, TP.HCM phải thực hiện giãn cách toàn thành phố theo Chỉ thị 16 tạo thêm những lo ngại về sự phục hồi kinh tế. Nếu tốc độ tiêm chủng của Việt Nam không đáp ứng, dịch bệnh chưa được kiểm soát thì đến năm 2022 nền kinh tế sẽ bị chững lại, các doanh nghiệp không hồi phục được như mô hình trước dịch và khả năng trả nợ giảm. Khi đó, nợ xấu sẽ gối đầu nhau và tăng dần lên, như vậy doanh nghiệp và nhiều khách hàng cá nhân không tiếp cận được vốn, cùng với đó là nhu cầu tín dụng giảm. Đây là một thách thức rất lớn mà các ngân hàng cần phải theo dõi chặt chẽ và chuẩn bị cho những kịch bản xấu nhất có thể xảy ra.

Hai, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế ở cấp độ cao hơn.

Theo xu thế phát triển và hội nhập, nhóm ngân hàng cần thực hiện các chuẩn mực quốc tế cao hơn như Basel II, Basel III,... nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro, khẳng định vị thế, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và thế giới, và tạo niềm tin cho khách hàng.

Ngân hàng là nhóm ngành có hệ thống tài chính rất hoàn thiện với nhiều chỉ tiêu đánh giá. Trong đó, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) vẫn đang là vướng mắc lớn để các ngân hàng đạt được yêu cầu của các chuẩn mực này. Nếu vốn chủ sở hữu không tăng tương xứng với cho khoản vay và đầu tư thì hệ số CAR sẽ giảm, cho nên việc tăng vốn và đảm bảo tỷ lệ CAR theo các chuẩn mực là một áp lực rất lớn đối với các ngân hàng.

Ba, sự cạnh tranh của ngân hàng trong các dự án chuyển đổi số và đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ.

Trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển của công nghệ, áp lực cạnh tranh của ngành ngân hàng ngày càng khốc liệt. Không chỉ là cuộc cạnh tranh của ngân hàng với nhau, giữa các ngân hàng với các công ty tài chính mà còn là giữa ngân hàng với fintech và bigtech, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ thanh toán và cho vay nhỏ lẻ, tiêu dùng.

Khảo sát trong tháng 6 năm 2021 của Vietnam Report đã chỉ ra top 3 lợi thế cạnh tranh được các ngân hàng lựa chọn nhiều nhất, đó là: Ứng dụng công nghệ (90,91% phản hồi); Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ (54,55%); Mạng lưới và kênh phân phối (36,36%). Có thể thấy đẩy mạnh các ứng dụng công nghệ và đa dạng hóa sản phẩm là hai chiến lược mũi nhọn được nhiều ngân hàng lựa chọn để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.

Bốn, những nút thắt về chính sách với các mô hình kinh doanh mới.

Cùng với sự phát triển của công nghệ, nhiều mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực tài chính ra đời như mô hình ngân hàng số 100%, tiền kỹ thuật số, cho vay ngang hàng v.v và đang cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng truyền thống. Tuy nhiên, tại Việt Nam nhiều quy định liên quan đến thanh toán không dùng tiền mặt, cho vay ngang hàng, dự thảo thay thế Nghị định 101 về thanh toán không dùng tiền mặt... vẫn đang ở dạng dự thảo, chưa được chính thức ban hành. Các quy định pháp lý trong nước lại chưa theo kịp với yêu cầu, khiến các ngân hàng thương mại e dè trong việc áp dụng công nghệ, dịch vụ mới ngoài khuôn khổ cho phép. Những nút thắt về chính sách này cần các cơ quan quản lý và nghiên cứu cần có phương án tiếp cận kịp thời.

Năm, rủi ro về an ninh mạng, thông tin dữ liệu an toàn.

Top 3 lý do lựa chọn sử dụng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng phẩm, dịch vụ của ngân hàng
Top 3 lý do lựa chọn sử dụng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng

Ngân hàng đóng vai trò là trụ cột của nền kinh tế và luôn dẫn đầu trong việc ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin, hầu hết các giao dịch và hoạt động tài chính được xử lý trực tuyến nên có một tỷ lệ cao số vụ tội phạm an ninh mạng liên quan đến các ngân hàng. Thêm vào đó, đại dịch Covid-19 bùng phát cũng khiến cho các ngân hàng phải đối mặt với số lượng các hoạt động gian lận tăng lên đáng kể.

Ngoài ra, ngân hàng cũng gặp phải những rủi ro về đạo đức liên quan đến khách hàng, và nhân viên ngân hàng. Với loại hình ngân hàng mở được giới thiệu gần đây, khách hàng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo mật, quyền riêng tư, gian lận trong lĩnh vực ngân hàng và fintech.

Bên cạnh đó, ngân hàng mở cũng đã làm tăng tác động của các vụ vi phạm và sự cố an ninh mạng. Tính bảo mật cao chính là chìa khóa mang lại niềm tin cho khách hàng và các đối tác trong kinh doanh. Kết quả khảo của Vietnam Report với khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đã chỉ ra top 3 yếu tố khi lựa chọn một ngân hàng: Đứng đầu là ngân hàng có Giao dịch an toàn, bảo mật cao (67,65%); Thủ tục đơn giản, nhanh chóng (64,71%); Phí dịch vụ (50%)./.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top