Nâng cao quyền năng kinh tế và vị trí của người phụ nữ trong xã hội hiện đại
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ: KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC
Trong lĩnh vực kinh tế, phụ nữ tham gia lực lượng lao động chiếm tỷ lệ cao. Với việc chiếm 47,7% trong lực lượng lao động thành thị và 47,2% trong lực lượng lao động nông thôn(1), phụ nữ có mặt ở khắp các lĩnh vực và chiếm số đông trong một số ngành, nghề như nông nghiệp, giáo dục, y tế. Chiếm 45,5% lực lượng lao động ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và phải đối diện với nhiều khó khăn, thử thách, nhưng phụ nữ nông thôn vẫn nỗ lực vươn lên, thực sự làm chủ trong sản xuất; đa số phụ nữ đã tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới, giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Cùng với sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của đất nước, phụ nữ tham gia ngày càng đông đảo vào các ngành công nghiệp chế biến, dệt may, da giày, điện tử, thương mại, tài chính, ngân hàng. Quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã hình thành và phát triển đội ngũ nữ doanh nhân, kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành, nghề, với những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Khi nền kinh tế đất nước chịu ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu, đội ngũ nữ doanh nhân đã phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, vượt qua thách thức để giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển. Cùng với đội ngũ doanh nhân Việt Nam, với tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ lên tới 24% vào năm 2019(2), nữ doanh nhân Việt Nam có đóng góp không thể phủ nhận trong các ngành thương mại, dịch vụ, phong trào "Quốc gia khởi nghiệp", thực hiện trách nhiệm xã hội. Đặc biệt, khi cả nước căng mình ứng phó với đại dịch Covid-19 và trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng chậm lại, các nữ doanh nhân chính là những chiến sĩ trên mặt trận kinh tế, kiên cường đồng hành cùng người lao động và nhân dân vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thử thách.
Dù đã nỗ lực và có những đóng góp to lớn cho đất nước, nhưng phụ nữ vẫn gặp không ít khó khăn, thách thức, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới: Lực lượng lao động nữ tuy đông về số lượng, nhưng tỷ lệ qua đào tạo thấp nên chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Số lao động nữ không có trình độ chuyên môn chiếm tới 49,4%(3), tập trung vào lao động nữ ở nông thôn, trong độ tuổi trung niên, phụ nữ dân tộc thiểu số; tỷ lệ lao động nữ làm thuê các công việc trong hộ gia đình chiếm đến 94,7% tổng lao động làm thuê.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, tỷ lệ lao động nữ bị thất nghiệp cao hơn so với lao động nam. Số doanh nghiệp vừa và nhỏ do phụ nữ làm chủ phải tạm ngừng một phần hoặc dừng toàn bộ hoạt động kinh doanh cao hơn so với doanh nghiệp vừa và nhỏ do nam giới làm chủ. Điều này đã phần nào làm tăng khoảng cách giới trong một số lĩnh vực, như lao động, việc làm, trong gia đình, gia tăng bạo lực giới... Thực trạng đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực hiện công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ cũng như chất lượng triển khai thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới.
Bên cạnh vấn đề lao động, việc làm, các chính sách an sinh xã hội cho phụ nữ cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm. Nhìn tổng thể, lao động nữ tập trung nhiều ở khu vực việc làm phi chính thức, là khu vực nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động, nên ít được hưởng lợi từ các chế độ lương hưu, thai sản, thất nghiệp và bảo hiểm y tế. Có nhiều vấn đề đặt ra đối với phụ nữ di cư (chiếm 55,5% trong số lao động di cư)(4), nữ công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất, như tiền lương thấp, việc làm bấp bênh, điều kiện sống khó khăn, an sinh xã hội không bảo đảm, nguy cơ thất nghiệp sau 35 tuổi rất cao. Hiện nay, còn tồn tại vấn đề nữ nông dân thiếu việc làm, khó chuyển đổi nghề khi đất canh tác phải chuyển đổi mục đích sử dụng, phụ nữ ít có điều kiện nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân, kể cả khi sinh con; một tỷ lệ nhất định phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng sâu và các nhóm phụ nữ yếu thế (nghèo, khuyết tật, đơn thân...) trong đời sống còn gặp nhiều khó khăn, ít cơ hội tiếp cận thông tin, giáo dục - đào tạo và hệ thống an sinh xã hội.
Những khó khăn khác ở tầm vĩ mô, như trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa đồng đều giữa các vùng, miền, mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động trực tiếp đến đời sống, việc làm của một bộ phận phụ nữ, ảnh hưởng đến sự phát triển của phụ nữ, đặc biệt là trong nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
ĐỒNG HÀNH, HỖ TRỢ NÂNG CAO QUYỀN NĂNG KINH TẾ CỦA PHỤ NỮ
Với vai trò là tổ chức nòng cốt trong công tác phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng, 94 năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhằm đoàn kết, tập hợp, vận động, phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của các tầng lớp phụ nữ trong cả nước. Bám sát nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, các cấp hội đã triển khai phong trào thi đua, các cuộc vận động, các nhiệm vụ trọng tâm, góp phần nâng cao năng lực và chất lượng đời sống mọi mặt cho hội viên, phụ nữ; trong đó có các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, với 5 kết quả nổi bật từ năm 2017 đến nay(5), cụ thể là:
(1) Hoạt động hỗ trợ hội viên, phụ nữ giảm nghèo được đẩy mạnh ở các cấp. Thông qua các mô hình sinh kế tạo việc làm tại chỗ, hoạt động có địa chỉ giúp phụ nữ nghèo, giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, hỗ trợ vốn tín dụng cho phụ nữ nghèo được thực hiện có hiệu quả, gắn kết với Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình quốc gia "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP), Cuộc vận động "Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch", Chương trình Đồng hành cùng phụ nữ biên cương. Các cấp hội đã giúp hơn 2 triệu hộ nghèo, trong đó có trên 387 nghìn hộ đã thoát nghèo theo tiêu chí đa chiều. Việc thực hiện thành công các mô hình giảm nghèo trên cơ sở xây dựng cơ chế quản lý xoay vòng vốn phù hợp với thực tế của từng mô hình được các ban, ngành đánh giá cao và là cơ sở để tiếp tục xây dựng, phát triển mô hình giảm nghèo của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025.
(2) Đề án "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025" (Đề án 939) được triển khai đã góp phần nâng cao nhận thức, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp đến các tầng lớp phụ nữ, quan tâm đến các thành phần phụ nữ yếu thế, như phụ nữ khuyết tật, phụ nữ hoàn lương, phụ nữ chịu ảnh hưởng của HIV/AIDS, phụ nữ nghèo, phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, bảo đảm thực hiện mục tiêu "không để ai bị bỏ lại phía sau". Hoạt động hỗ trợ của Hội phù hợp nhu cầu của từng đối tượng; cách thức tổ chức linh hoạt, bắt kịp với yêu cầu, xu hướng phát triển xã hội (trực tuyến kết hợp trực tiếp).
Hoạt động hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp được đẩy mạnh với nhiều hình thức sáng tạo. Chủ đề Ngày Phụ nữ khởi nghiệp hằng năm đã bám sát chỉ đạo của Chính phủ, sự chuyển động của nền kinh tế. Theo đó, đã có 63/63 tỉnh, thành phố tổ chức Ngày Phụ nữ khởi nghiệp cấp tỉnh, 31/63 tỉnh, thành phố tổ chức Ngày Phụ nữ khởi nghiệp đến cấp huyện, thu hút trên 80 ngàn phụ nữ có ý tưởng, dự án dự thi. Các cấp Hội đã đề xuất, vận động nguồn lực từ ngân sách nhà nước và nguồn xã hội hóa, hỗ trợ cho trên 78 nghìn phụ nữ khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh thông qua các hình thức tập huấn nâng cao năng lực, kết nối tiếp cận tín dụng, kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm, kết nối xúc tiến thương mại, đầu tư… Trong khuôn khổ Đề án 939, đã có 100% số cán bộ hội phụ nữ chuyên trách các cấp tham gia triển khai Đề án được nâng cao nhận thức, phương pháp hỗ trợ phụ nữ về khởi nghiệp, phát triển kinh doanh; hơn 18 triệu hội viên phụ nữ được tuyên truyền, nâng cao nhận thức về việc làm, khởi nghiệp; hỗ trợ 79 ngàn phụ nữ khởi sự kinh doanh và khởi nghiệp; 56.968 doanh nghiệp của phụ nữ mới thành lập được tư vấn, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.
Hoạt động hỗ trợ phát triển doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ được đổi mới theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ dựa trên nhu cầu phát triển và thích ứng với bối cảnh, tình hình; các cấp hội tổ chức nhiều chương trình đa dạng hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh do phụ nữ làm chủ nâng cao năng lực; hỗ trợ tiếp cận tín dụng, thị trường, thông tin, công nghệ, tác động chính sách. Bên cạnh các nội dung tập huấn nâng cao năng lực kinh doanh mang tính truyền thống, các cấp hội đã phát huy tính chủ động, sáng tạo, tổ chức nhiều hoạt động liên kết, hợp tác, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, như quản trị kinh doanh, năng lực ứng phó khủng hoảng do Covid-19, ứng dụng thương mại điện tử, kết nối tiêu thụ sản phẩm, tổ chức hội thi và quảng bá sản phẩm của phụ nữ khởi nghiệp; đẩy mạnh kết nối liên tỉnh và nội tỉnh, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là nông sản trong giai đoạn ảnh hưởng của dịch Covid-19; kết nối tiêu thụ sản phẩm thông qua phối hợp với Bưu điện Việt Nam, sàn thương mại điện tử Postmart, Tiki, Shopee...
Việc kết nối với mạng lưới các hội/hiệp hội/câu lạc bộ nữ doanh nhân, tăng cường hợp tác, phát huy thế mạnh của từng tổ chức (Hội Liên hiệp Phụ nữ và hội/hiệp hội nữ doanh nhân) được chú trọng hơn; thúc đẩy phát triển mạng lưới hội, hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp nữ. Đến nay, cả nước có 34 hội/hiệp hội doanh nhân nữ ở cấp quốc gia và tỉnh/thành được chính thức thành lập, với gần 10.000 hội viên; có 896 câu lạc bộ nữ doanh nhân, trong đó gồm 42 câu lạc bộ cấp tỉnh.
(3) Trong bối cảnh sắp xếp lại các trung tâm đào tạo nghề của Hội, các cấp Hội đã kịp thời điều chỉnh phương thức đào tạo, tăng cường phối hợp, liên kết, giới thiệu đào tạo, tổ chức các tổ/nhóm phụ nữ giúp nhau học nghề sát với nhu cầu thị trường, góp phần tăng tỷ lệ lao động nữ được đào tạo nghề.
Các cấp Hội và cơ sở giáo dục nghề nghiệp của Hội đã đào tạo nghề, phối hợp, giới thiệu đào tạo nghề cho 1.004.874 lao động nữ, chủ yếu đào tạo trình độ sơ cấp nghề và dưới 3 tháng với các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực nông nghiệp sản xuất sạch, an toàn (kỹ thuật trồng rau an toàn, kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm...) hoặc tiểu thủ công nghiệp (đan lục bình, mây tre đan, thêu, dệt thổ cẩm...). Hoạt động dạy nghề của các cấp hội gắn với tạo việc làm sau học nghề thông qua hỗ trợ thành lập các mô hình kinh tế tập thể, như HTX, tổ hợp tác, tổ/nhóm phụ nữ liên kết sản xuất, kinh doanh và hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp... được đẩy mạnh; từ đó, góp phần tạo việc làm bền vững và thu nhập ổn định cho phụ nữ, thu hút phụ nữ tích cực tham gia học nghề. Qua 5 năm triển khai, đã có hơn 1 triệu lao động nữ được đào tạo nghề.
(4) Hội Liên hiệp Phụ nữ tiếp tục là đoàn thể dẫn đầu với 6 điểm "nhất"(6) trong hoạt động ủy thác với Ngân hàng Chính sách xã hội, là kênh dẫn vốn hiệu quả cho các chương trình tín dụng chính sách của Nhà nước. Hoạt động tài chính vi mô của các cấp hội ngày càng chuyên nghiệp. Các chương trình tài chính vi mô của các cấp hội tiếp tục phát triển, không chỉ về số lượng, mà còn tăng lên cả về chất lượng, hiệu quả; không chỉ góp phần cải thiện điều kiện sống của phụ nữ, đặc biệt là tại các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, mà còn hướng tới đáp ứng các quy định của pháp luật chuyên ngành(7). Điểm nổi bật của nhiệm kỳ vừa qua là đã có 45 chương trình/dự án tài chính vi mô của các tỉnh, thành phố đăng ký theo Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg, ngày 12/6/2017, của Thủ tướng Chính phủ, "Quy định về hoạt động của chương trình, dự án tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ".
Tổ chức tài chính vi mô trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tình thương tập trung ứng dụng công nghệ thông tin, đa dạng hóa sản phẩm tài chính và phi tài chính, đáp ứng nhu cầu của nhiều nhóm phụ nữ khác nhau, trong đó có nhóm phụ nữ khởi nghiệp. Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiếp tục thí điểm hoạt động Quỹ Bảo hiểm vi mô góp phần đa dạng hóa sản phẩm tài chính vi mô, đồng thời tạo thêm kênh an sinh xã hội cho phụ nữ nghèo.
Kế hoạch triển khai Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được ban hành và triển khai trong toàn hệ thống hội hướng tới nâng cao hiểu biết, năng lực tài chính và khả năng của phụ nữ trong tiếp cận và sử dụng an toàn, thuận tiện các sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu. Bước đầu, các cấp hội đã triển khai một số hoạt động xây dựng tài liệu, tổ chức nhiều hoạt động truyền thông, tập huấn, nâng cao hiểu biết, năng lực tài chính cho phụ nữ. Việc mở rộng phối hợp với nhiều đơn vị cung ứng dịch vụ tài chính (Ngân hàng Chính sách xã hội và 3 ngân hàng thương mại khác) giúp gia tăng cơ hội cho phụ nữ, thuận tiện trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu (bảo hiểm vi mô, tín dụng cho khởi nghiệp, tín dụng cho phát triển kinh doanh...).
(5) Hội đã đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ phụ nữ tham gia và phát triển mô hình kinh tế tập thể, HTX dưới nhiều hình thức: Tuyên truyền, vận động hội viên, phụ nữ, người dân tham gia mô hình kinh tế tập thể; 90% số cán bộ hội các cấp và hơn 80% số hội viên đã được tuyên truyền về chính sách, chủ trương phát triển kinh tế tập thể; xây dựng các mô hình HTX phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở địa phương, vùng, miền theo hướng khôi phục và phát huy các nghề truyền thống, phát huy tài nguyên sẵn có góp phần tạo dựng thương hiệu các sản phẩm của địa phương; sản xuất sản phẩm bảo vệ sức khỏe cho người sử dụng, thân thiện với môi trường; xây dựng mô hình HTX gắn với tạo việc làm cho lao động nữ. Các cấp Hội đã hỗ trợ thành lập mới 1.214 HTX do phụ nữ tham gia quản lý với trên 20.000 thành viên và 12 nghìn tổ hợp tác với trên 32.000 thành viên, trong đó có trên 70% là các HTX nông nghiệp sản xuất, tiêu thụ sản phẩm an toàn; thu nhập bình quân của thành viên đạt trung bình trên 5 triệu đồng/người/tháng. Gần 400 mô hình sinh kế hỗ trợ phụ nữ vùng biên giới, biên cương phát triển kinh tế bền vững thuộc Chương trình Đồng hành cùng phụ nữ biên cương đã được thành lập. Đề án "Hỗ trợ hợp tác xã do phụ nữ tham gia quản lý, tạo việc làm cho lao động nữ đến năm 2030"(8) được Chính phủ phê duyệt năm 2023 với các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, là cơ sở quan trọng để Hội cùng các ngành, các cấp thúc đẩy hơn nữa hoạt động hỗ trợ phụ nữ tham gia phát triển kinh tế tập thể, góp phần nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ.
Tuy nhiên, hoạt động hỗ trợ nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ còn gặp những hạn chế, khó khăn sau:
Hoạt động hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, đặc biệt qua Đề án 939 ở địa phương, còn một số hạn chế do công tác phối hợp giữa các bên tham gia thực hiện Đề án còn chưa thực sự chặt chẽ; công tác tăng cường hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực, công tác phối hợp lồng ghép hoạt động hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp chưa thực sự được quan tâm thỏa đáng; công tác kết nối, xây dựng mạng lưới hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp chưa được chặt chẽ, sâu rộng.
Hoạt động hỗ trợ phát triển doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ chưa có chiến lược dài hạn, chưa bắt kịp nhu cầu phát triển của doanh nghiệp; nguồn lực hỗ trợ (nhân lực và kinh phí tổ chức các hoạt động) còn hạn chế.
Nhận thức về vai trò, cách thức hỗ trợ phát triển HTX của một số cán bộ hội chưa sâu sắc; công tác tuyên truyền chưa có nhiều đổi mới, việc hướng dẫn, tư vấn còn lúng túng; một số HTX được Hội hỗ trợ, nhưng phát triển chưa thực chất.
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số đã đem lại các tiến bộ về năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và sự thay đổi nhu cầu sử dụng lao động. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng có những tác động khó lường đến tính chất của việc làm truyền thống, gây ra nguy cơ phá vỡ thị trường lao động, lao động bị dư thừa do máy móc thay thế con người và gia tăng áp lực do sự chuyển dịch của nguồn lực lao động. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Việc tham gia các tổ chức khu vực và thế giới, như Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)..., đòi hỏi phải có chiến lược nâng cao chất lượng hàng hóa và an toàn, vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP...
BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Từ những kết quả bước đầu trong việc hỗ trợ nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Một là, bám sát và cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến phát triển kinh tế trong từng năm, từng giai đoạn, từng thời kỳ; lựa chọn những hoạt động hỗ trợ phù hợp với nhu cầu thiết thân của phụ nữ, khả năng của các cấp hội; đồng thời, kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Hai là, phát huy, khơi dậy ý chí tự lập, tự cường, khát vọng vươn lên, tinh thần chủ động, sáng tạo để hội viên, phụ nữ nâng cao thu nhập, tham gia tích cực trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ba là, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ hội làm công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, cập nhật kịp thời các chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế, có kiến thức, kỹ năng cơ bản trong tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế.
Bốn là, nắm bắt tình hình tư tưởng, đời sống, việc làm của hội viên, phụ nữ; nâng cao hiệu quả thực chất công tác tham mưu, đề xuất chính sách, giám sát và phản biện xã hội đối với các chính sách liên quan đến hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững.
Năm là, huy động nguồn lực tổng hợp từ các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để tạo nguồn lực cho hoạt động, lồng ghép vào các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương và địa phương, các chương trình phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức.
Để tiếp tục nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ trong thời gian tới, cần thực hiện tốt một số giải pháp đồng bộ sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, kênh truyền thông của Hội về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khởi nghiệp, phát triển kinh doanh, HTX; về vai trò, vị trí của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội; phát huy nội lực, ý chí vươn lên của phụ nữ và cộng đồng; chú trọng phát hiện, tuyên truyền, tôn vinh, nêu gương các điển hình tiên tiến; nhân rộng những mô hình hiệu quả, cách làm hay trong phát triển kinh tế, khởi nghiệp, phát triển HTX, doanh nghiệp.
Thứ hai, tiếp tục giám sát, đề xuất chính sách hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, tập trung cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; nghiên cứu, đánh giá, nhân rộng mô hình HTX, tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả.
Thứ ba, nâng cao năng lực tổ chức của đội ngũ cán bộ Hội. Các cấp Hội tổ chức các lớp tập huấn nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ trong hoạt động hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kinh tế, giảm nghèo; đưa nội dung giáo dục tài chính toàn diện; kỹ năng hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế hợp tác, HTX vào các tài liệu tập huấn của các cấp hội.
Thứ tư, phối hợp, vận động nguồn lực cho hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế. Các cấp hội đẩy mạnh hoạt động thành lập mạng lưới chuyên gia tư vấn, hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kinh tế; tổ chức các hội nghị, diễn đàn kết nối, liên kết giữa doanh nghiệp nữ, HTX do phụ nữ tham gia quản lý với các doanh nghiệp và nhà phân phối; phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các tổ chức tín dụng hỗ trợ phụ nữ tiếp cận các dịch vụ tài chính đa dạng; tăng cường vận động nguồn lực từ ngân sách nhà nước bằng cách chủ động nghiên cứu, xây dựng, đề xuất các hoạt động, đề án và tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia; mở rộng quan hệ phối hợp với các tổ chức trong nước, quốc tế để tập trung nguồn lực cho hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững./.
(1) Xem: Tổng cục Thống kê: "Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2020", https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2022/02/sach_laodong_2020_b6.pdf
(2) Xem: Bộ Kế hoạch và Đầu tư: "Báo cáo quốc gia năm 2020 - Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững", tr.71
(3) Xem: Tổng cục Thống kê: "Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2020", https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2022/02/sach_laodong_2020_b6.pdf
(4) Xem: Tổng cục Thống kê: "Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019", https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2019/12/Ket-qua-toan-bo-Tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-2019.pdf
(5) Xem: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: "Tài liệu học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII", http://hoilhpn.org.vn/documents/1809139/3700021/baigiang+NQDH+13+full.pdf/1a534372-bd08-4cc5-912f-c3ac991bd154
(6) 6 "nhất": Dư nợ cao nhất; tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhất; số tổ tiết kiệm và vay vốn nhiều nhất; tỷ lệ thành viên tham gia tiết kiệm cao nhất; số lượng thành viên nhiều nhất; tổ vay vốn và tiết kiệm có chất lượng tốt nhất.
(7) Tính đến tháng 12/2021, toàn hệ thống hội có 52/63 tỉnh, thành phố có chương trình tài chính vi mô đang được thực hiện, trong đó có 1 tổ chức tài chính vi mô được cấp phép (cấp trung ương), 170 chương trình/dự án tài chính vi mô do hội liên hiệp phụ nữ các cấp trực tiếp quản lý. Tổng dư nợ vốn đạt gần 2.000 tỷ đồng, số dư tiết kiệm đạt gần 400 tỷ đồng, với tổng số gần 300 nghìn khách hàng.
(8) Theo Quyết định số 01/QĐ-TTg, ngày 03/1/2023, của Thủ tướng Chính phủ.