Ngành ngân hàng chuyển đổi số - Chủ động thích ứng và phát triển bền vững trong bối cảnh mới
Bằng những nỗ lực, cố gắng bền bỉ trong suốt thời gian qua cùng sự phối hợp, hỗ trợ từ các bộ, ban ngành liên quan, ngành ngân hàng đã đạt được những thành quả đáng khích lệ trong quá trình chuyển đổi số và được quốc tế ghi nhận. Để giải quyết những thách thức trong bối cảnh mới và bám sát định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, phát huy kết quả đã đạt được, trong thời gian tới, ngành ngân hàng tập trung triển khai thực hiện các giải pháp quan trọng để chủ động thích ứng và phát triển bền vững.
***
Chuyển đổi số là quá trình tích hợp các công nghệ số vào tất cả lĩnh vực của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, thay đổi cơ bản cách thức vận hành, cung cấp sản phẩm, dịch vụ và đem lại giá trị cho khách hàng. Chuyển đổi số giúp giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, xã hội; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, xu hướng số hóa đã làm biến đổi sâu sắc toàn bộ diện mạo của đời sống xã hội cũng như nền kinh tế toàn cầu, tác động mạnh mẽ đến tất cả ngành, nghề, lĩnh vực. Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư cũng mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức, cá nhân. Vì vậy, chuyển đổi số trở thành xu hướng tất yếu và là yêu cầu bắt buộc giúp Việt Nam thích ứng và vượt lên thách thức của bối cảnh hiện nay.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã xác định đẩy mạnh chuyển đổi số là một chủ trương mới, đột phá quan trọng, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Chuyển đổi số được đề cập nhiều trong các mục tiêu, quan điểm phát triển và đột phá chiến lược tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nhấn mạnh, phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và cần thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra định hướng đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Thực hiện chủ trương đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3/6/2020 về phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030". Đây là những văn bản quan trọng, đóng vai trò định hướng cho việc tiếp cận cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng. Ngành ngân hàng được xác định là lĩnh vực có tác động xã hội lớn, liên quan hằng ngày tới người dân, cần ưu tiên chuyển đổi số trước.
Xác định đẩy mạnh chuyển đổi số là một chủ trương lớn, là hướng đi tất yếu để bảo đảm thích ứng với bối cảnh mới, ngày 11/5/2021, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 810/QĐ-NHNN, phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với quan điểm lấy người dân làm trung tâm, lấy tiện ích, thuận tiện cho người sử dụng dịch vụ là thước đo hiệu quả chuyển đổi số. Việc ban hành Quyết định số 810/QĐ-NHNN có thể xem là cột mốc quan trọng giúp xác định rõ định hướng, kế hoạch triển khai của ngành ngân hàng trong xu thế chuyển đổi số. Thời gian qua, ngành ngân hàng đã chủ động, nỗ lực thực hiện chuyển đổi số toàn diện trên các mặt, bao gồm chuyển đổi nhận thức, kiến tạo thể chế, xây dựng hạ tầng công nghệ, phát triển dịch vụ và bảo đảm an ninh, an toàn. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chuyển đổi nhận thức: Đặt con người là trung tâm, chủ thể, mục tiêu và là động lực phát triển của chuyển đổi số. Vì vậy, để chuyển đổi số thành công, trước hết cần chuyển đổi nhận thức, tư duy để thực hiện chuyển đổi từ môi trường truyền thống lên môi trường số hiệu quả. Đây là nhiệm vụ, giải pháp nền tảng, quan trọng hàng đầu cần được thực hiện trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Tại Nghị quyết số 52/NQ-TW và Quyết định số 749/QĐ-TTg đều đặt vấn đề về đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức là nhiệm vụ cần thực hiện trước tiên; trong đó Quyết định số 749/QĐ-TTg nêu rõ, nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số.
Xác định vai trò của chuyển đổi nhận thức, Ngân hàng Nhà nước là một trong các bộ, ngành đầu tiên thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số (năm 2021) và công bố lựa chọn ngày 11/5 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số ngành ngân hàng nhằm lan tỏa tinh thần, nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân về vai trò, lợi ích của chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức tọa đàm, hội thảo, khóa đào tạo cho các cấp lãnh đạo, nhân viên về công tác chuyển đổi số, đồng thời chú trọng triển khai chương trình phổ biến kiến thức ngân hàng - tài chính cho người dân.
Thứ hai, về kiến tạo thể chế: Hoạt động tiền tệ, ngân hàng là lĩnh vực có tính tuân thủ cao, do đó khung khổ pháp lý có vai trò quan trọng mang tính quyết định đối với sự vận hành và phát triển của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số. Việc thiếu hành lang pháp lý đồng bộ là một trong các nguyên nhân có thể làm chậm quá trình số hóa của các tổ chức tín dụng. Điều đó đòi hỏi hệ thống chính sách, quy định quản lý của ngành liên tục bổ sung, hoàn thiện để tạo thuận lợi cho hoạt động chuyển đổi số ngân hàng.
Theo hướng này, Ngân hàng Nhà nước đã tập trung: 1- Nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các vấn đề cần được luật hóa để phù hợp với thực tiễn hoạt động(1); 2- Ban hành và tổ chức triển khai các đề án, chương trình, kế hoạch nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng(2); 3- Nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động chuyển đổi số của ngành. Ngân hàng Nhà nước cũng đang trong tiến trình hoàn thiện Dự thảo Luật và trình Chính phủ các nghị định(3) để tạo tiền đề cho ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng. Như vậy, khuôn khổ pháp lý thúc đẩy chuyển đổi số ngành ngân hàng ngày càng được hoàn thiện theo hướng phù hợp hơn với thay đổi nhanh chóng của thực tiễn trong thời đại số. Năm 2020 - 2021, Ngân hàng Nhà nước liên tục xếp thứ hạng cao trong các bộ, ngành về chỉ số kiến tạo thể chế chuyển đổi số.
Thứ ba, về phát triển hạ tầng chuyển đổi số: Nếu ví chuyển đổi số là ngôi nhà thì hạ tầng số chính là nền móng, do đó phát triển hạ tầng số sẽ tạo bệ phóng vững chắc cho chuyển đổi số. Hạ tầng số phục vụ chuyển đổi số ngân hàng hiện nay, bao gồm các hệ thống thanh toán quan trọng và hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin của mỗi tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; hệ thống thông tin tín dụng quốc gia; các hạ tầng kỹ thuật của các đơn vị, ngành, lĩnh vực khác có kết nối với ngành ngân hàng trong quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
Thời gian qua, hạ tầng chuyển đổi số luôn được quan tâm đầu tư, tạo nền tảng cho quá trình chuyển đổi số ngành ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử... thường xuyên được nâng cấp về năng lực xử lý, bảo đảm hoạt động liên tục, thông suốt và an toàn, đáp ứng nhu cầu thanh toán điện tử toàn quốc. Ngành ngân hàng đặt mục tiêu xây dựng hệ sinh thái tích hợp toàn bộ hệ thống, hướng tới kết nối liên thông toàn bộ các bộ, ngành. Không chỉ phát triển ở phạm vi trong nước, Việt Nam còn triển khai thử nghiệm QR Code với Thái Lan, Campuchia và sẽ tiếp tục mở rộng ra các nước trong khu vực trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, hạ tầng thông tin tín dụng cũng được đầu tư, nâng cấp để tăng mức độ xử lý, khả năng tự động cập nhật, đồng thời tăng khả năng thu thập và xử lý dữ liệu trong và ngoài ngành, nâng mức độ phủ sóng trên 72,75% số người trưởng thành với 55 triệu tài khoản và mức độ cập nhật trên 98%. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Công an ký thỏa thuận xác thực 51 triệu dữ liệu thông tin tín dụng khách hàng để làm sạch dữ liệu. Đến nay, CIC và C06 đã phối hợp hoàn thành xác thực 4 đợt với 42,3 triệu hồ sơ khách hàng theo phương thức ngoại tuyến (offline), tạo cơ sở quan trọng để lành mạnh thông tin tín dụng, phòng, tránh việc lừa đảo, tội phạm hoạt động trong lĩnh vực này.
Triển khai thực hiện Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Tổ Công tác của ngành ngân hàng triển khai Đề án 06 và ban hành Kế hoạch của ngành ngân hàng triển khai Đề án 06 giai đoạn 2022 - 2025 và Kế hoạch nhiệm vụ chi tiết từng năm. Nhờ chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp, ngành ngân hàng đã đạt được một số kết quả tích cực. Dịch vụ công của Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thành kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chính thức từ tháng 12/2022 và bước đầu phối hợp triển khai kết nối phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Nhiều ngân hàng đã phối hợp với Bộ Công an thử nghiệm thành công một số giải pháp ứng dụng xác thực người dân qua thẻ căn cước công dân gắn chíp trong một số nghiệp vụ ngân hàng.
Thứ tư, về phát triển các mô hình, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số: Xuyên suốt chặng đường chuyển đổi số với mục tiêu lấy khách hàng làm trung tâm, hệ thống tổ chức tín dụng đã tích cực đầu tư và phát triển các mô hình, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số. Theo đó, thời gian qua, các ngân hàng đã chủ động ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số tiên tiến, như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn, tự động hóa quy trình bằng rôbốt, trí tuệ nhân tạo, máy học... vào các hoạt động ngân hàng, cung ứng các sản phẩm dịch vụ an toàn, tiện ích nhằm gia tăng trải nghiệm cho khách hàng. Các ngân hàng cũng xây dựng, thiết lập các trung tâm, đơn vị riêng trong nội bộ nhằm nghiên cứu, đẩy mạnh chuyển đổi số ngân hàng. Nhiều ngân hàng chủ động hợp tác với hãng công nghệ lớn (BigTech), công ty công nghệ tài chính (Fintech) để nâng cao hiệu quả vận hành qua ứng dụng các công nghệ, giải pháp số tiên tiến, cho ra đời các dịch vụ ngân hàng số thế hệ mới (Neobanking) hướng đến đối tượng khách hàng trẻ, năng động, am hiểu công nghệ và chú trọng vào trải nghiệm khách hàng vượt trội chỉ trên kênh số. Các ngân hàng cũng hợp tác với đơn vị bán hàng hóa, dịch vụ để cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và ngoài ngân hàng một cách an toàn, thuận tiện, tích hợp sâu vào hành trình số của khách hàng.
Đến nay, hầu hết ngân hàng đã và đang xây dựng chiến lược chuyển đổi số và phát triển dịch vụ ứng dụng trên internet và điện thoại di động. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã cho ra mắt ứng dụng ngân hàng số và nỗ lực tạo sự khác biệt cho sản phẩm số. Nhiều nghiệp vụ ngân hàng, như mở tài khoản thanh toán, thanh toán chuyển tiền, gửi tiền/gửi tiết kiệm đã được số hóa toàn diện 100%, cho phép khách hàng thực hiện hoàn toàn trên kênh số; nhiều ngân hàng Việt Nam đã ghi nhận tỷ lệ hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua kênh số. Hệ sinh thái ngân hàng số, thanh toán số đã được thiết lập với việc kết nối dịch vụ ngân hàng số với nhiều dịch vụ số khác trong nền kinh tế, mang lại các trải nghiệm liền mạch và lợi ích to lớn cho người sử dụng dịch vụ trên không gian số.
Thứ năm, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo mật thông tin khách hàng: Chuyển đổi số cần đi liền với bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng, qua đó bảo đảm sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng, giúp tạo lập niềm tin và sự gắn bó của khách hàng đối với các sản phẩm, dịch vụ số. Tại Chiến lược phát triển công nghệ thông tin ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin được xác định là một trong những trụ cột chính của phát triển công nghệ ngành ngân hàng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã và đang tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trong ngành triển khai đồng bộ 5 nhóm giải pháp(4) nhằm bảo đảm an toàn, an ninh mạng hệ thống thông tin và bảo mật dữ liệu khách hàng. Về phía tổ chức tín dụng, các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ được bảo đảm an toàn, hoạt động liên tục, đáp ứng tốt nhu cầu của người dân, doanh nghiệp. Ngành ngân hàng đã được Bộ Thông tin và Truyền thông đánh giá xếp hạng cao nhất trong các ngành về mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin và bảo đảm an toàn thông tin trong năm 2020 và năm 2021.
Bằng những nỗ lực, cố gắng bền bỉ trong suốt thời gian qua cùng sự phối hợp, hỗ trợ từ các bộ, ban ngành liên quan, ngành ngân hàng đã đạt được những thành quả đáng khích lệ trong quá trình chuyển đổi số và được quốc tế ghi nhận. Ngân hàng Nhà nước luôn được đánh giá cao trong bộ chỉ số chuyển đổi số của các bộ, ngành; chỉ số kiến tạo thể chế về chuyển đổi số; chỉ số an toàn, an ninh mạng. Trong 7 năm đánh giá cải cách hành chính theo chỉ số PAR Index của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước có 7 năm liên tiếp xếp vị trí đứng đầu khối các bộ, ngành Trung ương. Ngân hàng Nhà nước liên tiếp được xếp thứ hạng cao về chỉ số chuyển đổi số bộ, ngành (DTI). Hãng tư vấn chiến lược toàn cầu McKinsey đánh giá ngành ngân hàng Việt Nam có mức độ ứng dụng ngân hàng số với tốc độ nhanh nhất trong khu vực.
Bên cạnh những thành tựu mà ngành ngân hàng đạt được, vẫn còn nhiều thách thức phía trước, đó là:
Một là, trong bối cảnh tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, cơ sở pháp lý để thúc đẩy ngân hàng số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, rõ ràng, cần được tiếp tục rà soát, bổ sung và ban hành.
Hai là, sự đồng bộ và chuẩn hóa kết cấu hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho sự kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số, cung ứng dịch vụ đa tiện ích cho khách hàng còn nhiều thách thức.
Ba là, việc ứng dụng công nghệ trong ngành ngân hàng được quan tâm, nhưng chưa bảo đảm được sự đồng bộ trong toàn hệ thống để tạo ra các bước đột phá và chuyển biến lớn trong toàn ngành. Việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại, có hàm lượng đổi mới sáng tạo cao phần lớn tập trung tại các ngân hàng lớn trong hệ thống, khả năng bao phủ trên toàn quốc còn hạn chế.
Bốn là, xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ với những thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, khó lường làm gia tăng rủi ro an ninh mạng. Nhận thức của các bên liên quan, người dùng về chuyển đổi số, về rủi ro trong giao dịch trực tuyến còn hạn chế. Một bộ phận người dân, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn tâm lý e ngại khi tiếp cận và sử dụng các dịch vụ thanh toán trên nền tảng số.
Năm là, thiếu đội ngũ chuyên gia, đội ngũ cán bộ có năng lực cao về công nghệ thông tin, chuyển đổi số, thực sự chuyên nghiệp có tầm khu vực và quốc tế.
Để giải quyết những thách thức nêu trên và bám sát định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, phát huy kết quả đã đạt được, trong thời gian tới, ngành ngân hàng tập trung triển khai thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho hoạt động chuyển đổi số ngân hàng; rà soát, sửa đổi các quy định pháp lý về kết nối, khai thác dữ liệu, về bảo đảm an ninh, an toàn, bảo mật trong hoạt động ngân hàng điện tử, áp dụng biện pháp xác thực bằng sinh trắc học...
Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hạ tầng công nghệ phục vụ cho việc cung ứng sản phẩm số; tăng cường tích hợp, kết nối với các bộ, ngành, địa phương, lĩnh vực khác để cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số phù hợp với từng khu vực. Bên cạnh đó, ngành ngân hàng tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an và các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ triển khai Đề án 06 của Thủ tướng Chính phủ, đem đến những kết quả cụ thể về ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
Thứ ba, đơn giản hóa và tối ưu quy trình, nghiệp vụ, chú trọng nâng cao trải nghiệm của khách hàng, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số để phát triển, cung ứng sản phẩm, dịch vụ an toàn, tiện ích gắn với bảo đảm an toàn thông tin cho các hệ thống công nghệ thông tin, dịch vụ ngân hàng số, thanh toán số; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chuyển đổi số để phát triển, tiếp nhận công nghệ mới vào hoạt động ngân hàng.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết cho khách hàng, người dân về sử dụng các dịch vụ ngân hàng trên kênh số một cách an toàn, phù hợp; giúp khách hàng có kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ mình khỏi rủi ro khi giao dịch trên môi trường điện tử. Đồng thời, tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến, sự phát triển của mô hình, giải pháp kinh doanh đổi mới sáng tạo trong ngành để kịp thời có biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Thứ năm, chú trọng công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo và chuyên gia đầu ngành; đào tạo lực lượng cán bộ nắm bắt được tiến bộ khoa học - công nghệ và ứng dụng vào thực tiễn ngành ngân hàng./.
---------------------
Chú thích:
(1) Cụ thể như Luật Phòng, chống rửa tiền đã được Quốc hội thông qua; đề xuất sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước.
(2) Cụ thể, như Chỉ thị về việc đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng; Kế hoạch Chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch Chuyển đổi số của Ngân hàng Nhà nước năm 2022, năm 2023; Kế hoạch hoạt động của Ban Chỉ đạo chuyển đổi số ngành ngân hàng năm 2022 và năm 2023; Kế hoạch của ngành ngân hàng triển khai Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030...
(3) Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) và Dự thảo Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, Nghị định cơ chế quản lý có kiểm soát fintech trong hoạt động ngân hàng.
(4) Cụ thể: 1- Rà soát, ban hành các văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo; kiểm tra công tác bảo đảm an toàn hệ thống thông tin và phòng, chống tội phạm mạng tại các tổ chức tín dụng; thường xuyên theo dõi, giám sát hạ tầng công nghệ thông tin, các hệ thống thanh toán quan trọng; 2- Tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về an toàn thông tin cho người dân khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, ứng dụng ngân hàng số, thanh toán số; 3- Triển khai các giải pháp kỹ thuật tăng cường bảo đảm an toàn thông tin; 4- Nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới ứng cứu sự cố an toàn thông tin ngành ngân hàng; 5- Phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm công nghệ cao, xử lý nhiều vụ việc gian lận, lừa đảo trong hoạt động ngân hàng.