Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, chiều 12/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, Quốc hội tiến hành thảo luận ở Hội trường về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Ngay đầu phiên họp, đã có 46 đại biểu Quốc hội đăng ký phát biểu thảo luận. Các đại biểu: Hoàng Thị Thu Trang (Nghệ An); Nguyễn Hữu Toàn (Lai Châu); Dương Tấn Quân (Bà Rịa - Vũng Tàu); Phương Thị Thanh (Bắc Kạn); Bố Thị Xuân Linh (Bình Thuận); Đinh Thị Phương Lan (Quảng Ngãi); Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình); Tô Ái Vang (Sóc Trăng); Vương Ngọc Hà (Hà Giang); Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh); Châu Quỳnh Giao (Kiên Giang); Tô Văn Tám (Kon Tum); Leo Thị Lịch (Bắc Giang); Đinh Thị Bình (Phú Thọ);.... bày tỏ tán thành cao về sự cần thiết phải có một Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT- XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bởi đây là vùng trũng về KT- XH của đất nước, kéo dài trong rất nhiều năm chậm được khắc phục. Việc ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT- XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số sẽ giảm khoảng cách chênh lệch giữa các vùng trong cả nước.
Đồng thời các đại biểu tham luận làm rõ thêm một số nội dung: Bảo đảm kinh phí đầu tư các dự án vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; ưu tiên bố trí vốn đầu tư cho các dự án thực sự cần thiết, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho vùng "lõi nghèo", đặc biệt khó khăn, tránh dàn trải, lãng phí; bảo đảm kế sinh nhai cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; tạo sự liên kết chặt chẽ giữa người dân và doanh nghiệp; quan tâm đầu tư các dự án mang tính hỗ trợ về cơ chế, phát huy tính tự lực, tự cường của người dân; làm rõ sự liên kết giữa chương trình mục tiêu này với 2 chương trình mục tiêu quốc gia đang thực hiện (xây dựng nông thôn mới; giảm nghèo bền vững) nhằm bảo đảm tính đồng bộ, khả thi; triển khai các mô hình cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân; gắn chính sách đào tạo với sử dụng cán bộ y tế; bổ sung các giải pháp căn cơ để bảo vệ phụ nữ, trẻ em; hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá xã, thôn đặc biệt khó khăn phù hợp với đặc thù vùng; củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; nâng cao vai trò của Ngân hàng Chính sách xã hội trong công tác giảm nghèo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi;...
Mục tiêu cuối cùng là chính sách phải trực tiếp tới từng người dân
Theo đại biểu Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh), mục tiêu cuối cùng là chương trình phải vào được đời sống người dân, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thực sự bộ mặt của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; những chính sách này phải trực tiếp tới từng gia đình, từng người một, nhất là các chương trình, chính sách về bình đẳng giới, chăm sóc trẻ em.
“Tôi nghĩ đây là chương trình hạt nhân để tất cả chúng ta quan tâm, không chỉ là những chương trình của Chính phủ, Nhà nước mà mọi người khi có tấm lòng quan tâm thì đây là hạt nhân để xã hội tiến bộ hơn”, đại biểu Sơn nói.
Đề cập đến nguồn lực thực hiện Chương trình, đại biểu cho rằng, nguồn lực Chính phủ phê duyệt trên 137.000 tỷ đồng là nền tảng chứ chưa thể đáp ứng được các ý tưởng trong Chương trình này. Vì thế, theo đại biểu, vấn đề xã hội hóa ở đây không chỉ là huy động các doanh nghiệp, đơn vị mà các tổ chức và chính quyền các cấp.
Trong phân bổ nguồn lực của Chương trình, tỷ lệ gói tín dụng cho người dân trên 19.000 tỷ đồng là còn ít. Cần hỗ trợ lãi suất để người dân chủ động vay ở các ngân hàng để sản xuất, phát triển nâng cao đời sống, thu nhập cũng như vật chất, tinh thần, văn hóa. Đại biểu lưu ý, không việc gì phải chi cho hoạt động của Ban quản lý các dự án mà cần chi cho các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người dân để thu hút được các nguồn lực khác.
Liên quan đến dự án thứ 8 về thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em. Đại biểu cho rằng, để thực sự hướng đến bình đẳng giữa phụ nữ dân tộc với phụ nữ miền xuôi, với phụ nữ đô thị thì cần tính toán thế nào cho hiệu quả. Ngoài tiêu chí quy định cụ thể thì cần đưa vào lồng ghép chỉ tiêu, tiêu chí ở tất cả các đề án phải có nội dung này.
Đại biểu cũng đề nghị Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, HĐND các cấp cần vào cuộc giám sát việc tổ chức thực hiện ngay từ đầu khi triển khai, không chủ quan để ảnh hướng đến uy tín của Chương trình, mong muốn của người dân. Ngoài việc Quốc hội bàn cụ thể thì tổ chức, chỉ đạo thực hiện cần quan tâm đồng bộ, không chỉ đồng bào dân tộc miền núi mà các địa phương, tỉnh, thành phố phải tạo điều kiện để hỗ trợ cho Chương trình này.
Nếu đầu tư dàn trải, thì sẽ khó đạt mục tiêu đề ra
Đại biểu Nguyễn Hữu Toàn (Lai Châu) nhấn mạnh, một trong những yêu cầu đặt ra trong Nghị quyết 88 của Quốc hội là tích hợp chính sách đồng bộ, thống nhất, thu gọn đầu mối quản lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng, bảo đảm nâng cao hiệu quả, hiệu lực đầu tư. Ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho vùng đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, 10 dự án được thiết kế khá độc lập, chưa làm rõ mối tương quan với các dự án của các chương trình mục tiêu quốc gia khác.
Theo đại biểu, giai đoạn 2016 - 2020 chúng ta đang thực hiện 2 chương trình mục tiêu quốc gia là xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Hai chương trình này đã phát huy kết quả hết sức tích cực, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, thay đổi bộ mặt của nông thôn, đẩy nhanh thoát nghèo bền vững, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, các huyện, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Trong 5 năm qua, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ mức 9,2% năm 2016 xuống còn 3% năm 2020 và hiện tại đã có trên 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Có thể nói, đây là những chủ trương đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, được đông đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Với những kết quả đạt được chắc chắn đông đảo cử tri, đặc biệt là nông dân, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số miền núi khó khăn mong muốn tiếp tục triển khai thực hiện chương trình này trong giai đoạn tới.
Tuy nhiên, 2 chương trình này có thời gian thực hiện đến năm 2020, xong đến nay việc đánh giá, tổng kết thực hiện và đề xuất tiếp tục thực hiện các chương trình này chưa được Chính phủ báo cáo Quốc hội.
Qua rà soát các chương trình mục tiêu quốc gia đang thực hiện và chương trình mục tiêu quốc gia Chính phủ đang đề xuất giai đoạn 2021 - 2030, theo đại biểu, có sự trùng lắp về mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung hoạt động và địa bàn thực hiện. 6/10 dự án thành phần có nội dung tương tự đang thực hiện ở 2 chương trình mục tiêu quốc gia đang thực hiện, chỉ 4 dự án có nội dung mới.
Vì vậy, đại biểu đề nghị Chính phủ cần có tổng kết đánh giá kết quả, làm rõ việc tiếp tục thực hiện 2 chương trình mục tiêu quốc gia trong thời gian tới.
Đồng thời tiến hành rà soát các mục tiêu, nhiệm vụ của 6 dự án thành phần có nội dung trùng lắp, khẳng định các mục tiêu giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới đã và đang triển khai thực hiện cho giai đoạn tới sẽ tiếp tục được thực hiện như thế nào? Cơ quan nào chịu trách nhiệm trong quản lý, phân bổ nguồn lực để không chồng chéo, trùng lắp giữa chương trình mục tiêu quốc gia này với 2 chương trình mục tiêu quốc gia đang thực hiện. Trên cơ sở đó xác định rõ đối tượng, cơ chế phối hợp, tiêu chí phân bổ nguồn lực đầu tư tập trung hơn, hạn chế loại bỏ những dự án không phù hợp và có điều chỉnh cần thiết nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và khả thi. Tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để thực hiện các mục tiêu đang đặt ra ở Nghị quyết 88 của Quốc hội.
Về thứ tự ưu tiên các dự án thành phần, trong điều kiện cân đối nguồn lực, ngân sách còn nhiều khó khăn, đại biểu Nguyễn Hữu Toàn nhấn mạnh, nếu đầu tư dàn trải, không tập trung có trọng tâm, trọng điểm thì sẽ khó đạt mục tiêu đề ra.
Vì vậy, Chính phủ cần xây dựng thứ tự ưu tiên thực hiện các dự án giai đoạn đầu và nên tập trung vào các dự án giải quyết được 5 vấn đề cơ bản, mang tính chất nền tảng, như đầu tư mạnh hơn cho giáo dục, đào tạo để tạo cái gốc phát triển con người; giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất; đầu tư phát triển vào dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn; sắp xếp ổn định dân cư; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và sinh kế cho đồng bào.
Chọn dự án trọng điểm, mang tính dẫn dắt để làm trước
Đại biểu Hoàng Thị Thu Trang (Nghệ An) cũng đánh giá, dự thảo Chương trình được xây dựng công phu, tâm huyết, toàn diện, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, thể hiện sự quan tâm chăm lo đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, đại biểu Hoàng Thị Thu Trang cũng đề cập đến vấn đề khiến nhiều đại biểu Quốc hội, người dân quan tâm, trăn trở nhất là nguồn kinh phí bảo đảm thực hiện Chương trình. Đại biểu cho rằng, sự trăn trở này có cơ sở vì trước đây chúng ta ban hành một số chính sách song không có nguồn lực bảo đảm, nhất là chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo dự toán của Chính phủ, tổng ngân sách cần cho giai đoạn 2021 - 2025 là 114 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương khoảng 100 nghìn tỷ đồng, ngân sách địa phương là 10 nghìn tỷ đồng. Việc bố trí ngân sách Trung ương để bảo đảm thực hiện Chương trình này đã khó thì việc địa phương vốn đối ứng để bảo đảm thực hiện càng khó hơn vì đa số các tỉnh thụ hưởng chương trình này đều là tỉnh nghèo, hiện đang hưởng trợ cấp từ ngân sách Trung ương.
Để tránh chính sách ban hành không thực hiện được, dàn trải, lãng phí, không ảnh hưởng đến thực hiện các chương trình khác, đại biểu Hoàng Thị Thu Trang đề nghị, cần xây dựng lộ trình theo giai đoạn và hàng năm.
Đặc biệt, cần xác định những việc làm cụ thể theo hướng chọn một dự án trọng tâm, trọng điểm, những dự án mang tính cấp thiết, đột phá, mang tính dẫn dắt làm trước. Thay vì thực hiện đồng thời cả 10 dự án trong chương trình, giai đoạn đầu chỉ nên tập trung thực hiện một số dự án như: Dự án tập trung giải quyết đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; Dự án ổn định, phát triển dân cư; Dự án phát triển sản xuất, đầu tư hạ tầng, phát triển giáo dục. Có như vậy mới thực hiện nguyên tắc được Nghị quyết 88 của Quốc hội đặt ra: Ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực đầu tư.
Hỗ trợ mô hình liên kết người dân - doanh nghiệp
Tán thành với dự án được Chính phủ trình liên quan đến tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số, song từ thực tế, đại biểu Hoàng Thị Thu Trang nhận thấy, một trong những khó khăn của vùng đồng bào dân tộc miền núi là sản xuất không có đầu ra, bấp bênh, được mùa mất giá, được giá mất mùa, nhiều khi người dân không có động lực sản xuất.
Để giải quyết vấn đề này, theo đại biểu, cần quan tâm hỗ trợ mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và người dân để bảo đảm đúng định hướng doanh nghiệp đi đầu, dẫn dắt bà con. Thực hiện như vậy, doanh nghiệp không cần quá nhiều đất, trong khi nhiều hộ dân tộc không có đất sản xuất, mà người dân được canh tác trên chính mảnh đất của mình, không phải lo về kỹ thuật, đầu ra sản xuất.
Người dân làm được sản phẩm nào được doanh nghiệp thu mua, có tiền tươi thóc thật sẽ rất phấn khởi. Tuy nhiên, trong thực tiễn mô hình này cũng chưa thực sự mạnh mẽ do có một số khó khăn: nhiều khi người dân chưa “chung thủy” với doanh nghiệp, thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp chưa ổn định.
“Thiết nghĩ Nhà nước nên có giải pháp hỗ trợ, giải quyết vướng mắc cho doanh nghiệp để tạo sự liên kết chặt chẽ giữa người dân và doanh nghiệp. Cần nghiên cứu triển khai tiểu dự án tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp và người dân”, đại biểu đề nghị.
Phát huy tính tự lực, tự lập của người dân
Cùng với đó, đại biểu cũng đề nghị Quốc hội, Chính phủ nên phân cấp cho địa phương tự khảo sát, xây dựng đề án cho địa phương, vì mỗi địa phương có tiềm năng, khó khăn riêng, tự xác định cây con có thế mạnh riêng.
Việc xác định mẫu số chung về cây con chủ lực sẽ dễ dẫn đến không sát với nguồn lực địa phương và có thể xảy ra tình trạng sản xuất ra hàng loạt cây con, phải giải cứu nông sản.
Về cơ chế, trong 10 dự án được đưa ra trong dự thảo Chương trình cơ bản mang tính chất hỗ trợ nguồn lực nhiều hơn hỗ trợ cơ chế.
Trong điều kiện nguồn lực có hạn, theo đại biểu, cần giảm tính ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, phát huy tính tự lực, tự lập của người dân thì việc hỗ trợ cơ chế sẽ phù hợp, sẽ quan trọng hơn. Ví dụ, thực hiện những cơ chế tài chính như tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách từ thuế, các hoạt động khai thác khoáng sản, thủy sản… sẽ tạo động lực cho địa phương chăm lo nguồn thu trên địa bàn.
Trước đó, ngày 28/5, Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ và thẩm tra về quyết định đầu tư “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” (Chương trình), giai đoạn 2021 - 2030.
Theo Tờ trình của Chính phủ, nước ta có 53 dân tộc thiểu số với hơn 14 triệu người, gần 3 triệu hộ, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước.
Đây là vùng trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; có nhiều tài nguyên khoáng sản, có hệ sinh thái động, thực vật đa dạng; có trên 14 triệu ha rừng, là đầu nguồn sinh thủy, gắn với các công trình thủy điện quốc gia vừa cung cấp điện, vừa cung cấp nước sản xuất, sinh hoạt cho vùng hạ du và khu vực đồng bằng.
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư, đạt được thành tựu to lớn, cơ sở hạ tầng KT-XH và đời sống của đồng bào sinh sống ở vùng DTTS&MN đã được cải thiện rõ rệt nhưng hiện nay, vẫn là vùng khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, KT-XH phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do vùng đồng bào DTTS&MN chủ yếu là núi cao, biên giới, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng KT-XH kém nhất cả nước, xuất phát điểm rất thấp; biến đổi khí hậu, sự cố môi trường diễn ra nghiêm trọng và khó lường… Chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa lớn nên rất khó khăn để thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển KT-XH.
Bên cạnh đó, Chính sách hỗ trợ phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN tuy đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng còn nhiều đầu mối xây dựng, quản lý, theo dõi; nguồn lực phân tán, dàn trải; chưa phân định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp; chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của vùng, phát huy nội lực của đồng bào để đẩy mạnh phát triển toàn diện vùng đồng bào DTTS&MN.
Chương trình Mục tiêu Quốc gia (MTQG) nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc đã được chỉ ra trong Báo cáo số 426/BC-CP của Chính phủ; là giải pháp quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu của Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể Phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030.
Đối tượng điều chỉnh của Chương trình là xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn.
Địa bàn thực hiện Chương trình: Thực hiện ở địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi là các xã, thôn có tỷ lệ hộ DTTS từ 15% trở lên. Phân định theo trình độ phát triển, bao gồm địa bàn đặc biệt khó khăn (xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn), địa bàn còn khó khăn (xã khu vực II), địa bàn bước đầu phát triển (xã khu vực I). Thời gian thực hiện Chương trình: 10 năm (2021 - 2030), chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1: 2021 - 2025; Giai đoạn 2: 2026 - 2030.
Thời gian thực hiện Chương trình là 10 năm (2021-2030), chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 2021 - 2025 và giai đoạn 2026 - 2030.
Tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2021 - 2025 tối thiểu 137.664,95 tỷ đồng. Trong đó ngân sách Trung ương tối thiểu 104.954,01 tỷ đồng, vốn đầu tư phát triển tối thiểu 50.629,16 tỷ đồng. Tổng vốn thực hiện giai đoạn 2026-2030 dự kiến 134.270,70 tỷ đồng.
Mục tiêu tổng quát của Chương trình là: Giảm nghèo nhanh, bền vững; thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với bình quân chung của cả nước; đảm bảo an sinh xã hội; bảo vệ an ninh tổ quốc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.
Mục tiêu cụ thể đến 2025: Chương trình sẽ đóng góp quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu được xác định trong Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội. Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu chủ yếu sau: Giảm tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hàng năm trên 3%; phát triển bền vững sinh kế, tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số lên hơn 2 lần so với năm 2020; phấn đấu giảm trên 60% số xã, thôn đặc biệt khó khăn so với tiêu chí năm 2020.
Định hướng mục tiêu đến năm 2030: Nỗ lực cao nhất, phấn đấu đạt được các mục tiêu đã xác định trong Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội: Tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số lên tối thiểu bằng 1/2 bình quân chung của cả nước; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%; cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn.
Chương trình gồm 10 Dự án thành phần gồm:
Dự án 1: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt của hộ dân tộc thiểu số.
Dự án 2: Quy hoạch sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết.
Dự án 3: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị.
Dự án 4: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp công lập của lĩnh vực dân tộc.
Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.
Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.
Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.
Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn.
Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình.
Về giải pháp và cơ chế quản lý, điều hành Chương trình: Phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển để tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho các địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù.
Áp dụng một số cơ chế đặc thù để thực hiện các dự án của Chương trình.
Đa dạng hóa nguồn vốn trong đó vốn nhà nước là quan trọng và có ý nghĩa quyết định, tạo điều kiện thuận lợi để huy động vốn ODA và đẩy mạnh thu hút các nguồn lực ngoài ngân sách, khuyến khích sự tham gia, đóng góp của người dân để thực hiện các mục tiêu của Chương trình theo nguyên tắc “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”.
Công khai, dân chủ, phát huy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số; quán triệt phương châm: “Dân cần, dân bàn, dân làm, dân hưởng lợi”, “Xã, thôn có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập”.
Đẩy mạnh phân cấp, trao quyền và nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương; lồng ghép, thực hiện bình đẳng giới trong triển khai thực hiện Chương trình.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát ở các cấp; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để theo dõi, giám sát, đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chương trình.
Về cơ chế quản lý, điều hành: Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình, do một đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc làm Phó Trưởng ban thường trực; lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính làm Phó Trưởng ban; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành có liên quan là thành viên; Ủy ban Dân tộc là cơ quan chủ trì quản lý Chương trình.
Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Ban Chỉ đạo Chương trình ở trung ương và hướng dẫn các địa phương xây dựng chức năng, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo cấp địa phương phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn và phát huy vai trò, chức năng của cơ quan công tác dân tộc các cấp trong tổ chức thực hiện Chương trình.
Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình ở trung ương quyết định thành lập Văn phòng Điều phối quốc gia đặt tại Ủy ban Dân tộc để tham mưu cho Ban Chỉ đạo, đảm bảo nguyên tắc tinh gọn, hiệu quả và không giao tăng thêm biên chế.
Nguyên tắc phân bổ ngân sách trung ương thực hiện Chương trình: Kinh phí của Chương trình được tổng hợp thành mục ngân sách trong vốn đầu tư công ở các cấp ngân sách theo Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công do Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Đề nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định định mức, phân bổ cụ thể ngân sách trung ương, đảm bảo nguyên tắc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên đầu tư cho địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù.
Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định phân bổ đến từng dự án thành phần để làm căn cứ chỉ đạo, điều hành cụ thể. Các địa phương bố trí vốn ngân sách địa phương và chủ động, tích cực huy động hợp lý nguồn vốn ngoài ngân sách theo quy định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu của Chương trình.
Tổ chức thực hiện Chương trình:
Thứ nhất, đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Chỉ đạo Ủy ban Dân tộc chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Báo cáo nghiên cứu khả thi, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư theo quy định của pháp luật.
Chỉ đạo các địa phương cân đối, huy động và sử dụng nguồn lực bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Hàng năm, Chính phủ báo cáo kết quả thực hiện Chương trình với Quốc hội; năm 2025 tổng kết giai đoạn 2021 - 2025 và trình Quốc hội thực hiện Chương trình giai đoạn 2026 - 2030.
Đối với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: Xây dựng kế hoạch, bố trí ngân sách địa phương, cùng với ngân sách trung ương và chủ động, tích cực huy động tối đa các nguồn lực khác theo quy định của pháp luật để thực hiện Chương trình.
Hàng năm, vào kỳ họp cuối năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về kết quả thực hiện chương trình.
Về giám sát việc thực hiện Chương trình: Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ, giám sát việc thực hiện Chương trình theo nội dung Nghị quyết này và các văn bản pháp luật có liên quan.
Chương trình đặc thù, tích hợp hơn 100 chính sách dân tộc
Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc bày tỏ cơ bản tán thành với sự cần thiết xây dựng Chương trình như Tờ trình của Chính phủ. Đây là một chương trình có tính đặc thù không chỉ phát triển KT-XH, mà còn tích hợp thực hiện hơn 100 chính sách dân tộc.
Nếu tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình sẽ giải quyết được những bất cập, hạn chế trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay, tạo cơ hội mới cho vùng đồng bào DTTS&MN phát triển, toàn diện, bền vững KT-XH, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển, thu nhập của đồng bào DTTS so với bình quân chung của cả nước.
Hội đồng Dân tộc cho rằng, việc Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt Chương trình là chấp hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; để cụ thể kết luận số 65-KL/TWcủa Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; thể chế hóa khoản 5 Điều 70 Hiến pháp 2013 Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước; cơ bản phù hợp với Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý nợ công. Chương trình được xây dựng bảo đảm về cơ sở pháp lý và thực tiễn, phù hợp, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Trên cơ sở đó, Hội đồng Dân tộc cho rằng, cần đẩy mạnh việc phân cấp và nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương; thực hiện công khai, dân chủ, đảm bảo sự tham gia tích cực, chủ động của cộng đồng và người dân trong các khâu thực hiện Chương trình; phát huy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào DTTS; thực hiện phương châm “Dân cần, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng lợi”, “Xã, thôn có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập”./.