Aa

Tránh lợi dụng chính sách gây thất thoát, lãng phí khi tạo cơ chế đặc thù phát triển TP.HCM

Ngọc Quang
Ngọc Quang ngocquangbc@gmail.com
Thứ Sáu, 26/05/2023 - 12:09

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội nêu rõ khi trình bày báo cáo Thẩm tra về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM.

Ông Lê Quang Mạnh - Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội trình bày báo cáo thẩm tra nêu rõ, TP.HCM là trung tâm kinh tế, thương mại, tài chính lớn nhất cả nước, có vai trò quan trọng trong điều tiết về ngân sách trung ương, hiện đang đóng góp khoảng 27%. Việc có chính sách vượt trộilà cần thiếtkhông chỉ đối với Thành phố mà cả Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả đất nước.

Ngoài những quan điểm nêu trong Tờ trình, việc ban hành Nghị quyết cần lưu ý một số quan điểm, nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất, các quy định cần tháo gỡ kịp thời vướng mắc về thể chế đang cản trở phát triển, phát huy tiềm năng, khắc phục sức ỳ trong thực hiện các định hướng thời gian qua; song tuyệt đốikhông lợi dụng xây dựng pháp luậtđể hợp thức hóa sai phạm.

Thứ hai, chính sách mới cần “mang tính đột phá”, “vượt trội” theo đúng tinh thần Nghị quyết 24-NQ/TW, Nghị quyết 31 của Bộ Chính trị., Nghị quyết81/2023/QH15 của Quốc hội;  song cần khả thi, có trọng tâm, không dàn trải; tránh lợi dụng chính sách gây thất thoát, lãng phí.

Thứ ba, phải thực sự mang tính lan tỏa, tác động sâu rộng không chỉ đối với Thành phố mà cần mang lại hiệu ứng tích cực đối với vùng miền và đất nước, giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực đến vai trò chủ đạo của NSTW.

Thứ tư, đi đôi với tăng cường phân cấp, phân quyền, cần đề cao trách nhiệm; song cũng rất cần một cơ chế bảo vệ, khuyến khích người nhiệt huyết, dám nghĩ, dám làm, giám chịu trách nhiệm.

Để tiếp tục hoàn thiện, Ủy ban Tài chính – Ngân sách cho rằng, một số vấn đề cần cân nhắc, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Chính phủ cần làm rõ:Với phạm vi chính sách như trong Dự thảo thì đã đủ để tháo gỡ vướng mắc về thể chế đang cản trở tiến trình phát triển hay chưa. Xét về số lượng chính sách là tương đối rộng, do vậy, cần có sự lựa chọn, có trọng tâm, tránh dàn trải để mỗi chính sách đều có cơ hội đi vào cuộc sống.

Thứ hai, cần chú trọng hơn nữa những chính sách thực sự đột phá, tạo bước chuyển mới trong khai thác tiềm năng theo đúng Nghị quyết 31; tránh nhiều về số lượng nhưng hạn chế về sức nặng.

Thứ ba, về tính bao quát, hợp lý của chính sách. Dự thảo tập trung nhiều vào chính sách chi ngân sách. Tuy nhiên, các chính sách thu ngân sách (như thuế, phí…) còn khá mỏng, trong khi Thành phố có đặc thù, lợi thế rất lớn trong khai thác nguồn thu. Vì vậy, về lâu dài, đề nghị nghiên cứu, có chính sách thu khả thi, góp phần cân đối nguồn lực cho những chính sách chi ngân sách. 

Thứ tư, đề nghị rà soát lại các chính sách có tác động trực tiếp đến NSTW như các đề xuất miễn, giảm thuế để phù hợp với bối cảnh hiện nay, nhất là khi chuẩn bị áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. Mặc dù rất cần một cơ chế ưu đãi so với các địa phương khác, cần thu hút nhân tài, lao động chất lượng cao, song tránh tạo chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa người lao động. 

Thứ năm, dự thảo quy định theo hướng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ; nhiều quyền hạn được giao cho các tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, còn thiếu vắng các quy định về trách nhiệm; đề nghị bổ sung để bảo đảm đúng nguyên tắc quyền hạn đi đôi với trách nhiệm.

Thứ sáu, về mối quan hệ với các dự thảo luật liên quan. Tờ trình đề xuất một số chính sách mới tương thích với các luật đang sửa đổi như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản... còn nhiều nội dung, ý kiến khác nhau. Vì vậy mặc dù Nghị quyết có thể quy định khác, nhưng đề nghị phải đảm bảo khả thi, hợp lý.

Thứ bảy, về điều kiện triển khai, đề nghị: Quy định rõ trong điều khoản thi hành những công việc cần triển khai; giao trách nhiệm cụ thể; tránh ban hành xong nhưng không thể vận hành do các tổ chức, cá nhân không rõ căn cứ triển khai; Về cơ chế ủy quyền, đề nghị bảo đảm đúng nguyên tắc ủy quyền; Bổ sung quy định về tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện. 

Thứ tám, về thẩm quyền, Dự thảo quy định một số vấn đề không thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Đề nghị không quy định nội dung này. (Như thẩm quyền quyết định bầu, tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ, công chức làm việc tại xã, thị trấn và cán bộ phường…

Thứ chín, để bảo đảm đúng mục tiêu thí điểm, Tờ trình cần làm rõ giá trị nhân rộng mô hình sau thí điểm để các tỉnh, thành khác có thể học tập, nhân rộng.

lê quang mạnh
Ông Lê Quang Mạnh - Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội. Ảnh: quochoi.vn

Dự thảo Nghị quyết có 2 nhóm chính sách với tổng cộng 44 nội dung cụ thể,bao gồm:

Một là, các chính sách đã được quy định tại Nghị quyết 54; tại các Nghị quyết về cơ chế đặc thù áp dụng cho các địa phương khác; tại các dự thảo Luật trình Quốc hội.

Hai là, các chính sách mới lần đầu được quy định với 4 nhóm vấn đề gồm: đầu tư; tài chính - ngân sách; quản lý đất đai, quy hoạch; tổ chức bộ máy.

Về nhóm thứ nhất

Những chính sách kế thừa tại Nghị quyết 54, Ủy ban TCNS nhất trí với những chính sách được đánh giá là hiệu quả, cần tiếp tục kế thừa. Tuy nhiên, qua tổng kết 05 năm cho thấy, không phải tất cả các chính sách đều đi vào cuộc sống. Vì vậy, cần rà soát từng chính sách, làm rõđã phát huy tác dụng ở mức độ nào, tính cần thiết tiếp tục áp dụng.

Những chính sách kế thừa Nghị quyết 54 nhưng có sửa đổi, bổ sung, cần chú trọng trong khâu tổ chức thực hiện để bảo đảm hợp lý, như chính sách thu hút nhân tài, chuyên gia, nhà khoa học, không tạo khoảng cách thu nhập quá lớn giữa người lao động; tính khả thi của mức vay không quá 120% số thu theo phân cấp...

Các chính sách tương tự như các địa phương có cơ chế đặc thù, cần nghiên cứu, tránh dập khuôn, cần vận dụng sáng tạo theo hướng đột phá hơn, tương xứng với vị thế, tiềm năng của Thành phố. Chính sách chuyển đổi đất trồng lúa, quy hoạch… cần tính đến đặc thù của Thành phố. Việc ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cần đặt trong tình hình mới.

Những chính sách đang được quy định tại các dự thảo Luật trình Quốc hội: Cần bám sát quá trình hoàn thiện các dự thảo luật khác ở các nội dung như: cho phép các tổ chức kinh tế có quyền thế chấp, chuyển nhượng, cho thuê quyền thuê đất; về gia hạn quyền sử dụng đất nông nghiệp… Vì đều là những vấn đề rất lớn, liên quan đến lợi ích của Nhà nước, người dân. Do đó, đề nghị thận trọng, bảo đảm hợp lý trong mối tương quan với Luật Đất đai.

Về nhóm thứ 2 (những chính sách mới)

Về sử dụng nguồn tăng thu NSĐP để bổ sung kế hoạch đầu tư công: Để tránh cách hiểu khác khác nhau đề nghị không đưa nội dung này vào nghị quyết, vì đa số ý kiến cho rằng thực chất nội dung là đã quy định tại Luật NSNN, Luật Đầu tư công và thẩm quyền của HĐND thành phố.

Một số ý kiến cho rằng, quy định của Dự thảo Nghị quyết là cần thiết; nhằm tạo cơ chế rõ ràng, rút ngắn quy trình bổ sung dự án mới vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn, theo đó, HĐND Thành phố có thể chủ động quyết định mà không cần phải báo cáo và được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền trước khi bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn các dự án sử dụng nguồn tăng thu ngân sách Thành phố. Vì vậy, để tạo linh hoạt, chủ động, góp phần đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, nhất trí với quy định như Dự thảo Nghị quyết.

Về thí điểm mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông (khoản 2 Điều  4):Khoản 2 Điều 4 Dự thảo Nghị quyết quy định thí điểm mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông (TOD-Transit Oriented Development)- là mô hình phát triển đô thị gắn kết với giao thông công cộng, đặc biệt phù hợp với những thành phố lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…

Đa số ý kiến tán thành với việc thí điểm mô hình trên, vì:

Đây là chủ trương đúng đắn, tuân thủ Nghị quyết 31, trong đó đặt ra nhiệm vụ phát triển:“các khu đô thị mới, xung quanh các nhà ga Metro theo mô hình phát triển đô thị gắn kết với giao thông công cộng (TOD)”. Đây cũng là bướctiệm cận và vận dụng kinh nghiệm quốc tế trong phát triển đô thị.

Chính sách này góp phần huy động nguồn lực đầu tư các dự án, tạo đồng bộ trong phát triển đô thị và giao thông.

Làm tăng nguồn thu cho NSNN từ chênh lệch địa tô của các khu đất đem lại.

Góp phần tháo gỡ khó khăn trong tạo quỹ đất sạch triển khai các dự án phát triển đô thị.

Quy định này thống nhất với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).  Song để bảo đảm chặt chẽ và bao quát, đề nghị bổ sung quy định: Trách nhiệm trong tuân thủ quy hoạch; Nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong bồi thường.

Về đề nghị cho phép áp dụng PPP trong lĩnh vực thể thao, công nghiệp văn hóa, bảo tàng, di tích và di sản văn hóa: Đa số ý kiến nhận thấy: mặc dù theo quy định tại Điều 4 Luật PPP, các dự án đầu tư trong lĩnh vực thể thao, văn hóa không thuộc phạm vi của Luật, song để đáp ứng yêu cầu thực tế, nhất trí với đề xuất trên.

Một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc thực hiện PPP đối với các di tích, di sản văn hóa vì đây không phải là điểm nghẽn; đây là lĩnh vực thiêng liêng, có tính nhạy cảm; những công trình này cân được quản lý, gìn giữ gắn với trách nhiệm Nhà nước.

Đối với đề xuất áp dụng hợp đồng BOT để xây dựng nâng cấp, mở rộng đường bộ hiện hữu: Đa số ý kiến nhất trí với đề xuất này vì: Xét về yêu cầu thực tiễn, cần thiết có cơ sở pháp lý để huy động thêm nguồn lực cải tạo, nâng cấp, mở rộng các công trình giao thông trên địa bàn.

Xét về căn cứ pháp lý, Luật PPP năm 2020 không hạn chế các dự án BOT chỉ được áp dụng đối với tuyến đường mới và theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì phải áp dụng theo quy định của Luật PPP. Những vướng mắc phát sinh thời gian trước đây là do yếu kém trong tổ chức thực hiện, không do pháp luật. Đồng thời, để bảo đảm chặt chẽ, đề nghị quy định:

Trách nhiệm lựa chọn những công trình thật sự phù hợp với tính chất BOT; Cần quy định rõ trong Dự thảo Nghị quyết nguyên tắc không tạo gánh nặng cho người dân về thuế phí; tránh xảy ra khiếu kiện.

Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định trên vì Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 quy định:“Hợp đồng BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới...không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp…”. Nếu cải tạo và thu phí có thể sẽ tạo gánh nặng thuế, phí, tăng chi phí vận chuyển hàng hóa.

Về đề xuất tăng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP không lớn hơn 70% tổng mức đầu tư dự án: Đa số ý kiến nhận thấy, khác với nhiều địa phương khác, trên địa bàn Thành phố nhiều trường hợp chi phí giải phóng mặt bằng chiếm tỷ trọng trên 50% tổng mức đầu tư và phương án tài chính sơ bộ của dự án PPP không đảm bảo khả năng hoàn vốn. Do vậy, việc thí điểm như đề xuất sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn cho Thành phố.

Có ý kiến đề nghị cân nhắc vì: Nếu tăng lên mức 70% NSNN thì chưa đúng bản chất của PPP; chưa đạt mục tiêu huy động nguồn lực khi xây dựng Luật PPP. 

Đối với đề xuất được thực hiện đầu tư theo Hợp đồng BT, đa số ý kiến nhất trí  nhằm: Đa dạng hóa hình thức đầu tư; Tạo căn cứ pháp lý huy động nguồn lực xã hội “đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại” theo Nghị quyết 31. Song đề nghị đánh giá kỹ tác động đối với hình thức BT trả bằng tiền để bảo đảm hiệu quả, không gây hệ lụy.

Có ý kiến đề nghị không áp dụng hợp đồng BT vì: Trong giai đoạn trước một số dự án BT đã gây thất thoát cho NSNN. Trường hợp cần thiết, có thể đấu giá mặt bằng để lấy kinh phí thực hiện dự án theo kế hoạch. 

Ngoài ra, báo cáo thẩm tra cũng nêu ra một loạt các vấn đề khác cần lưu ý, trong đó Về quản lý đô thị và tài nguyên môi trường (Điều 6) nêu rõ: Dự thảo giao Thành phố quyết định linh hoạt trong việc quy hoạch bố trí nhà ở xã hội phù hợp thực tiễn, theo đó UBND Thành phố không nhất thiết phải dành 20% tổng diện tích đất đầu tư xây dựng nhà ở thương mại dành để xây dựng nhà ở xã hội.Pháp luật quy định dự án xây dựng nhà ở thương mại phải dành 20% tổng diện tích đất để xây dựng nhà ở xã hội.

Đa số ý kiến nhận thấy, trong một số trường hợp, quy định này chưa phù hợp thực tiễn, nhất là những dự án có quy mô nhỏ hoặc nằm trong khu đất có giá trị thương mại lớn; gây khó khăn cho người thuộc đối tượng ở nhà ở xã hội khi phải trả phí dịch vụ cao cấp. Để tạo chủ động,tán thành thí điểmgiao Thành phố linh hoạt trong bố trí nhà ở xã hội, song cần quy định rõ nghĩa vụ của các chủ đầu tư trong xây dựng nhà ở xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Ngoài ra, Ủy ban Tài chính – Ngân sách đề nghị cân nhắc thời gian có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2023 vì:

Thứ nhất, chưa phù hợp với Điều 151 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (thời điểm có hiệu lựckhông được sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua). Trong khi đó, nếu được Quốc hội cho phép, sẽ thông qua cuối tháng 6/2023.

Thứ 2, nhiều nội dung cần hướng dẫn thi hành đến nay chưa hoàn tất. Vì vậy, đề nghị quy định phù hợp Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và bảo đảm khả thi trong tổ chức thực hiện.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top