Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg - Chỉ thị đầu tiên trong năm 2020, về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, với những mục tiêu và 12 giải pháp được đánh giá là đột phá, theo các chuyên gia.
Theo Chỉ thị này, mô hình của một số nước có nền kinh tế phát triển dựa trên các doanh nghiệp công nghệ số cho thấy, đến năm 2030, Việt Nam cần ít nhất 100.000 doanh nghiệp công nghệ số để phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, ứng dụng thành tựu công nghệ số rộng khắp trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và thực hiện chuyển đổi số quốc gia.
“Khát vọng về một Việt Nam hùng cường, thị trường gần 100 triệu người và các bài toán đặc thù của Việt Nam trong các lĩnh vực nông nghiệp, giao thông, y tế, giáo dục, tài chính, tài nguyên, môi trường… chính là tiền đề thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh và vươn ra thế giới”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh trong Chỉ thị.
Tiến bộ vượt trội nhưng cần tiến nhanh hơn
Có thể thấy, Chỉ thị của Thủ tướng là phù hợp với tình hình hiện nay và hết sức kịp thời để góp phần triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trên thực tế, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Các số liệu từ Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) cho thấy, với sự đóng góp của 50.000 doanh nghiệp công nghệ, công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) duy trì tăng trưởng 10%. Tốc độ băng rộng di động tải xuống thống kê đến quý 4/2019 là 29,08 MBps, tiệm cận với tốc độ trung bình của thế giới (30,93 Mbps). Bộ TT&TT cũng đã trình Thủ tướng xem xét phương án dừng công nghệ di động cũ 2G vào năm 2022.
Theo báo cáo "Nền kinh tế số Đông Nam Á 2019" (e-Conomy Southeast Asia 2019) do Google, Temasek và Bain công bố cuối năm 2019, nền kinh tế số Việt Nam năm 2019 trị giá 12 tỷ USD (đóng góp 5% GDP quốc gia trong năm 2019), cao gấp 4 lần so với giá trị của năm 2015 và dự đoán chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025, với các lĩnh vực: thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe công nghệ.
Nền kinh tế số Việt Nam, cùng Indonesia, đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng trong khu vực Đông Nam Á, với trung bình 38%/năm so với 33% của cả khu vực tính từ năm 2015. Hà Nội và TP.HCM là 2 trong 7 thành phố lớn phát triển nền kinh tế số của khu vực. Việt Nam trở thành thị trường đón nhận nguồn đầu tư đứng thứ 3 trong khu vực (sau Indonesia và Singapore), với 600 triệu USD đầu tư từ 2018 đến nửa đầu 2019 so với tổng giá trị 350 triệu USD năm 2018 và 140 triệu USD của năm 2017.
Tổng giá trị giao dịch (GMV) trên thị trường thương mại điện tử Việt Nam ước đạt 5 tỷ USD trong năm 2019, cao gấp 12,5 lần mức 0,4 tỷ USD của năm 2015 và sẽ tăng tới 23 tỷ USD vào năm 2025, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 49%. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe trực tuyến cũng có sự vươn lên mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế số Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình chuyển đổi số quốc gia còn chậm, thiếu chủ động do hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế; nhiều doanh nghiệp còn bị động, năng lực tiếp cận, ứng dụng, phát triển công nghệ hiện đại còn thấp. Kinh tế số có quy mô còn nhỏ.
Nghị quyết của Bộ Chính trị đã đề ra những mục tiêu cụ thể về kinh tế cho những năm tới. Theo đó, tới 2025, xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP.
Còn tới năm 2030, mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp. Kinh tế số chiếm trên 30% GDP. Hoàn thành xây dựng Chính phủ số…
Thực tế cho thấy Việt Nam hoàn toàn có cơ hội đạt được các mục tiêu này. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, trong điều kiện quy mô và tiềm lực của nền kinh tế còn khiêm tốn, xét về trình độ và môi trường cho phát triển khoa học và công nghệ, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt trội so với các quốc gia ở trình độ phát triển tương đồng.
Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây liên tục tăng vượt bậc, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp (năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng tiếp 2 bậc, xếp thứ 45/126 quốc gia và năm 2019 tăng 3 bậc, xếp thứ 42/129 quốc gia, đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapore và Malaysia).
Theo nghiên cứu của Viện Năng suất Việt Nam, những doanh nghiệp có năng lực công nghệ, thiết bị được đánh giá cao có mức năng suất lao động cao hơn gần 2 lần so với trung bình của Việt Nam.
Trong các Nghị quyết 02 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Chính phủ cũng đã nhấn mạnh cần tập trung 2 nhóm giải pháp mới về thanh toán điện tử, áp dụng thủ tục hành chính cấp độ 4 và hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đây là những biện pháp then chốt giúp Việt Nam nhanh chóng thực hiện quá trình chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả quản trị và phát triển kinh tế.
Động lực quan trọng để Việt Nam đi tắt, tiến nhanh
Nay trong Chỉ thị, Thủ tướng nêu rõ, dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt lõi là công nghệ số (trí tuệ nhân tạo, học máy sâu, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet vạn vật…), chuyển đổi số đang tạo ra không gian phát triển mới - kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử. Đặc biệt, chuyển đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển cũng chỉ mới bắt đầu quá trình chuyển đổi số.
Do đó, phát triển các doanh nghiệp ứng dụng, chuyển giao, nghiên cứu và phát triển, sản xuất các sản phẩm, nền tảng, giải pháp dựa trên công nghệ số - các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam - để thúc đẩy đổi mới sáng tạo đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hiện thực hoá các cơ hội, tiềm năng mà chuyển đổi số mang lại khi đưa được công nghệ số vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đến từng người dân.
Theo Thủ tướng, các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam cần đi đầu, tạo đột phá trong thực hiện chiến lược “Make in Viet Nam” với hàm ý “Doanh nghiệp Việt Nam phấn đấu từng bước làm chủ về công nghệ, chủ động thiết kế, chế tạo các sản phẩm, chủ động trong sáng tạo các dịch vụ, giải pháp, mô hình kinh doanh mới”. Những doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam sẽ góp phần thực hiện sứ mệnh đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển, nền kinh tế Việt Nam bứt phá, phát triển nhanh, bền vững, bao trùm với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045.
Như vậy, Chính phủ Việt Nam đã xác định kinh tế số là động lực phát triển quan trọng, đưa Việt Nam tiến nhanh, đi tắt trong phát triển.
Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, muốn phát triển thì động lực quan trọng nhất là sử dụng công nghệ, nhất là công nghệ số. Năm 2020 là năm Việt Nam tuyên bố chiến lược chuyển đổi số quốc gia, là năm chuyển đổi số quốc gia sâu rộng và toàn diện.
Tại hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2020 của Bộ Thông tin và Truyền Thông, Thủ tướng đã yêu cầu Bộ TT&TT phải chỉ đạo các doanh nghiệp trong ngành đầu tư hạ tầng số đi trước một bước cho chuyển đổi số và đi đầu trong công cụ chuyển đổi số.
“Make in Vietnam” là một định hướng lớn, là tuyên bố sự chuyển dịch từ gia công, lắp ráp sang làm sản phẩm Việt Nam, sang làm chủ công nghệ, sáng tạo công nghệ. Các doanh nghiệp CNTT và truyền thông phải đi đầu trong chiến lược Make in Vietnam. Thậm chí, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đề xuất một tên gọi mới cho Bộ Thông tin và Truyền thông, đó là "Bộ Truyền thông và Kinh tế số".
Theo Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định về chuyển đổi số quốc gia trong quý I/2020, các địa phương sẽ xây dựng chương trình chuyển đổi số của địa phương mình, cũng như chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 theo tinh thần nghị quyết 52 của Bộ Chính trị và hoàn thành trong quý II/2020. Năm 2020 sẽ là năm chuyển đổi số quốc gia, đây là sự chuyển đổi sâu sắc và toàn diện.
Làm rõ hơn về mục tiêu phát triển doanh nghiệp công nghệ số, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, cứ mỗi 1.000 người dân là phải có 1 doanh nghiệp công nghệ số để thực hiện tư vấn công nghệ, chuyển giao công nghệ, chuyển giao lắp đặt và ứng dụng công nghệ, nhằm đưa công nghệ số ứng dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và mọi tổ chức, mọi doanh nghiệp, mọi gia đình. Như vậy, theo tính toán này, với khoảng 100 triệu dân, Việt Nam cần có khoảng 100.000 doanh nghiệp công nghệ số.
Theo GS.TSKH Hồ Tú Bảo, kinh tế số là khái niệm bao trùm tất cả mọi lĩnh vực như kinh tế nền tảng hay kinh tế chia sẻ. Nói cách khác kinh tế nền tảng là nhánh cơ bản của kinh tế số. Theo dự báo, tới năm 2030, việc thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở cả ba mức thấp, trung và cao có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tăng từ 28,5 - 62,1 tỷ USD.
Tương tự như vậy, nhiều tổ chức quốc tế cũng nêu dự báo cho rằng, nếu kịch bản tốt nhất xảy ra , Việt Nam thực hiện chuyển đổi số rộng khắp trên các ngành và xuất khẩu các sản phẩm và dịch vụ ICT thì GDP có thể tăng thêm 3.750 nghìn tỷ đồng trong 20 năm tới và tăng trưởng thêm 1,3% mỗi năm; trong đó, kinh tế nền tảng đóng vai trò không nhỏ.
Nhiều chuyên gia kinh tế tin rằng, việc xây dựng thế chế điều hành kinh tế nền tảng là điều các quốc gia đang nỗ lực thực hiện và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Do vậy, sự lên ngôi của kinh tế nền tảng số trong những năm gần đây đã và đang thúc đẩy những cải cách thực chất tại Việt Nam để đáp ứng tốc độ phát triển của công nghệ.