Bổ sung nguyên tắc "bền vững" trong sử dụng đất
Với hơn 12,1 triệu lượt ý kiến, trong đó, có gần 10,8 triệu lượt góp ý qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa cho rằng, việc lấy ý kiến Nhân dân về dự án Luật Đất đai (sửa đổi) là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý sâu rộng, là dịp để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình và thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai.
Góp ý một số nội dung cụ thể hoàn thiện Dự án Luật Đất đai (sửa đổi), đại biểu Phạm Trọng Nghĩa cho biết, liên quan đến chế độ sở hữu đất đai, Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
Cụ thể, Mục 1 Chương 2 Dự thảo Luật quy định về quyền, trách nhiệm của Nhà nước với tư cách là đại diện Chủ sở hữu. Điều 16 và Điều 18 quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng đất là cá nhân, tổ chức cụ thể được xác định tại Điều 6. Tuy nhiên, chưa có quy định về trách nhiệm cũng như mối quan hệ giữa Nhà nước với tư cách là người đại diện và Nhân dân với tư cách là Chủ sở hữu đất đai. Trường hợp nào phải do Nhân dân quyết định. Nội dung này cần được nghiên cứu bổ sung trong Dự thảo Luật.
Về nguyên tắc sử dụng đất, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa cho rằng, Việt Nam là quốc gia đất chật, người đông. Theo Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, tổng diện tích đất các loại là 36,7 triệu ha trong khi đó dân số hiện nay đã vượt ngưỡng 100 triệu người. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2013, nguồn lực đất đai của Việt Nam vào loại thấp nhất thế giới nếu tính theo đầu người. Với 33,1 triệu hecta đất tự nhiên, trong đó, có hơn 27 triệu hecta đất nông nghiệp, Việt Nam đứng thứ 156 trên thế giới và thứ 9 trong khu vực ASEAN về chỉ tiêu diện tích đất theo đầu người. Tỷ lệ này sẽ còn giảm với tốc độ tăng dân số của nước ta hiện nay. Đây là yếu tố cần được xem xét, đánh giá kỹ.
Đất đai là tài nguyên hữu hạn, cho nên có thể trong giai đoạn hiện nay, thậm chí ở thế hệ này chúng ta chưa có điều kiện để khai thác tốt nhất thì chúng ta tiếp tục quản lý, gìn giữ và bảo vệ để các thế hệ mai sau sử dụng hiệu quả hơn. Đây cũng chính là nguyên lý của phát triển bền vững, theo đó, việc sử dụng đất, một mặt, đáp ứng các nhu cầu của hiện tại nhưng không làm tổn thương đến khả năng của các thế hệ tương lai.
Vì vậy, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa đề nghị bổ sung nguyên tắc "bền vững" trong sử dụng đất vào Điều 6 Dự thảo Luật làm căn cứ, cơ sở cho việc xác lập các chính sách trong Dự thảo Luật. Bền vững cũng đã được xác định là nguyên tắc trong lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Khoản 3 Điều 60), trong lấn biển (Khoản Điều 190) và trong sử dụng công trình ngầm (Khoản Điều 214) Dự thảo Luật.
Nâng cao trách nhiệm giải quyết đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số
Liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa cho biết, đây là chế định được Nhân dân quan tâm, đóng góp ý kiến nhiều nhất với hơn 1,2 triệu lượt.
Khoản 3 Điều 90 Dự thảo Luật quy định, Người có quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật dân sự mà bị thiệt hại về tài sản gắn liền với đất thì được bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, Dự thảo Luật lại chưa xác định việc bồi thường thiệt hại này được thực hiện theo quy định của pháp luật nào.
Trên thực tế, khi Nhà nước thu hồi đất thì đối với tài sản trên đất như nhà cửa, cây cối... là tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất thì khi thu hồi phải thực hiện cơ chế thoả thuận dân sự về bồi thường thiệt hại chứ không thể áp dụng phương pháp hành chính như đối với đất.
Do đó, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa đề nghị bổ sung việc bồi thường thiệt hại tài sản gắn liền với đất phải được thực hiện theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự để vừa đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng đất, vừa đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với Bộ luật Dân sự.
Về đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số, Nghị quyết số 18 của Trung ương yêu cầu: Tập trung nguồn lực đầu tư, chỉ đạo quyết liệt và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Báo cáo số 139 của Chính phủ tổng hợp ý kiến Nhân dân cho thấy rất nhiều ý kiến liên quan đến đất đai cho đồng bào thiểu số được đề cập. Tuy nhiên, mới dừng lại ở quy định nghĩa vụ "bảo đảm" đất ở, đất sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Như vậy Dự thảo cơ bản giữ như Luật hiện hành, không mang tính đột phá, chưa tạo cơ chế để giải quyết dứt điểm những hạn chế, khó khăn về đất đai cho đồng bào.
Theo đại biểu Phạm Trọng Nghĩa, đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đất đai không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về tâm linh. Do đó, phải quan tâm đến văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống của đồng bào khi đưa ra các quy định về đất đai.
Từ các lập luận trên, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa đề nghị cơ quan soạn thảo Dự luật xem xét quy định một chế định riêng (có thể là một mục riêng) với những nội dung cụ thể về đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số.