Trong “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”, phát triển bền vững và tăng trưởng xanh là những mục tiêu lớn của Chính phủ Việt Nam nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội với bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, quá trình này cần phải có sự đồng lòng hợp tác từ nhiều phía như các ngân hàng thương mại (NHTM), các doanh nghiệp và cam kết hỗ trợ về mặt tài chính/kỹ thuật thực sự từ các quốc gia phát triển. PV đã có cuộc trao đổi với TS. Bùi Duy Tùng, Giảng viên Kinh tế Đại học RMIT.
PV: Xin ông cho biết, đâu là nguyên nhân khiến lĩnh vực tài chính xanh tại Việt Nam còn sơ khai, điều gì khiến tăng trưởng xanh nói chung và tín dụng xanh nói riêng gặp hạn chế?
TS. Bùi Duy Tùng: Tăng trưởng xanh được nhắc đến rất nhiều trong những năm gần đây và ngày càng trở nên cấp thiết đối với nền kinh tế tiến gần đến mục tiêu phát triển bền vững, tôi cho rằng có ba vấn đề lớn sau còn hạn chế:
Một là, thiếu nhân lực và đào tạo chuyên sâu: Số lượng các ngân hàng quan tâm và ban hành quy trình nội bộ về ngân hàng xanh, tín dụng xanh, quy trình thẩm định đối với các dự án xanh còn chưa nhiều, đội ngũ nhân viên ngân hàng cũng chưa được đào tạo chuyên sâu và bài bản để thực hiện thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.
Điều này dẫn đến việc họ chưa có đủ kỹ năng và kiến thức để đánh giá mức độ tác động của các dự án đầu tư xanh đến môi trường, gây khó khăn trong quá trình đưa ra quyết định về cấp tín dụng. Việc này dẫn đến sự khó khăn trong việc đánh giá và quản lý rủi ro cho các khoản vay xanh, và đồng thời cũng gây ra sự thiếu tin tưởng của các doanh nghiệp đối với các tổ chức tín dụng trong việc đầu tư vào các dự án xanh.
Hai là, thiếu hệ thống pháp lý và quy định rõ ràng: Các chính sách, quy định về môi trường tại Việt Nam còn chưa được hoàn thiện, dẫn đến việc các tổ chức tài chính và ngân hàng gặp nhiều khó khăn khi thực hiện và tuân thủ quy định về môi trường. Điều này gây ra sự thiếu tin tưởng từ các nhà đầu tư về tính bền vững của các dự án đầu tư xanh và làm chậm quá trình phát triển tài chính xanh.
Ba là, thiếu cơ chế khuyến khích và hỗ trợ từ Chính phủ: Việt Nam hiện chưa có cơ chế khuyến khích và hỗ trợ đầy đủ từ Chính phủ để thúc đẩy phát triển tài chính xanh. Do đó, các doanh nghiệp và ngân hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế để thực hiện các dự án đầu tư xanh.
Ngoài ra, còn một số khó khăn về quy định và thực thi chính sách môi trường tại Việt Nam, đặc biệt là trong việc kiểm soát và giám sát các hoạt động sản xuất, kinh doanh có tác động đến môi trường. Các quy định và chính sách này chưa được thực thi một cách nghiêm ngặt và hiệu quả, dẫn đến sự thiếu minh bạch và đáng tin cậy trong các báo cáo và đánh giá tác động môi trường của các dự án, cũng như không có sự đảm bảo về tính bền vững và tiềm năng rủi ro trong các khoản vay cho các dự án xanh.
PV: Trong giai đoạn hiện nay, thách thức lớn nhất cho phát triển tín dụng xanh là gì, thưa ông?
TS. Bùi Duy Tùng: Việc triển khai tín dụng xanh tại Việt Nam đang gặp phải nhiều thách thức. Mặc dù Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách và khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và ngân hàng đẩy mạnh tín dụng xanh, tuy nhiên, các vướng mắc về quy trình, nhân lực, và chính sách vẫn còn rất nhiều.
Trong đó, số lượng các ngân hàng quan tâm và ban hành quy trình nội bộ về tín dụng xanh, quy trình thẩm định đối với các dự án xanh chưa đủ. Đội ngũ nhân viên ngân hàng cũng chưa được đào tạo chuyên sâu, bài bản để thực hiện thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng, trong khi các dự án đầu tư xanh luôn tiềm ẩn rủi ro và khó đánh giá hiệu quả khoản vay cả về mặt xã hội và tài chính, tài sản bảo đảm.
Cùng với đó, năng lực đánh giá rủi ro môi trường - xã hội của các cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, đa phần chỉ kiểm tra trong hồ sơ xin vay vốn xem có bản đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt hay chưa, một số sẽ kiểm tra công nghệ xả thải và kế hoạch di dân (nếu có) của công trình/dự án, nhưng hầu hết đều dựa vào kinh nghiệm của người thẩm định.
Hiệu quả của việc thẩm định này còn nhiều tranh cãi khi thực tế trong giai đoạn vừa qua đã có nhiều dự án sản xuất, kinh doanh phải dừng thi hành, do những tác động tiêu cực tới môi trường, gây ảnh hưởng trực tiếp tới các ngân hàng, tổ chức cấp tín dụng.
Các báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với hầu hết các dự án vẫn chưa đủ phòng ngừa các nguồn ô nhiễm môi trường. Điều này khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài chính khó có thể đảm bảo rằng các dự án đang được tài trợ của họ không gây ra hậu quả tiêu cực cho môi trường.
Đặc biệt, các tổ chức kinh tế vẫn chú trọng đến lợi ích kinh tế và coi nhẹ công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến việc các tiêu chuẩn tín dụng xanh chưa được thực hiện một cách đầy đủ và nghiêm ngặt. Điều này làm giảm tính hiệu quả của tín dụng xanh và đặt ra thách thức về tính minh bạch và trách nhiệm của các tổ chức tài chính trong việc đảm bảo phát triển bền vững cho đất nước.
Ngoài ra, việc thiếu hụt thông tin về tín dụng xanh và không có chuẩn mực rõ ràng cũng là một thách thức đối với ngân hàng trong việc triển khai sản phẩm tín dụng xanh. Hiện nay, việc đo lường hiệu quả tín dụng xanh và thực hiện giám sát việc sử dụng tiền vay cũng là một vấn đề phức tạp. Một số tổ chức cho rằng việc thiếu chuẩn mực và đánh giá hiệu quả cụ thể của các dự án tài chính xanh làm cho các ngân hàng cảm thấy khó khăn khi đưa ra quyết định về việc cho vay.
PV: Vậy theo ông, đâu là giải pháp căn cơ để thu hút đầu tư và tăng trưởng tín dụng xanh hiệu quả, nhất là với thu hút nhà đầu tư nước ngoài?
TS. Bùi Duy Tùng: Để thu hút đầu tư và tăng trưởng tín dụng xanh hiệu quả, các giải pháp cần phải được thực hiện đồng thời trên nhiều mặt. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là xây dựng môi trường pháp lý cho các hoạt động tài chính xanh. Các chính sách và quy định về tài chính xanh cần được đưa ra một cách rõ ràng và minh bạch, đồng thời cần phải được áp dụng một cách hiệu quả để tạo động lực cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp thực hiện các dự án và hoạt động tài chính xanh.
Đồng thời, cần thiết phải xây dựng và phát triển thị trường tài chính xanh. Đây là một môi trường cần thiết để các tổ chức tài chính và doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn đầu tư và thực hiện các dự án xanh. Thị trường tài chính xanh cần phải được phát triển thông qua việc khuyến khích các hoạt động tài chính xanh, phát hành trái phiếu xanh và các sản phẩm tài chính xanh khác.
Ngoài ra, cần thiết phải xây dựng các cơ chế hỗ trợ và khuyến khích để tăng cường năng lực tài chính xanh cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp. Các cơ chế này bao gồm các chính sách khuyến khích tài trợ, đào tạo và nâng cao năng lực cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp về tài chính xanh, cũng như tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi để các tổ chức tài chính và doanh nghiệp có thể phát triển hoạt động tài chính xanh bền vững.
Mặt khác, NHTM còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển tín dụng xanh và thu hút đầu tư xanh. Để đáp ứng nhu cầu này, các NHTM cần phải thực hiện những giải pháp phù hợp để tăng cường khả năng tài chính và đáp ứng được yêu cầu của những dự án xanh.
Thứ nhất, các NHTM cần phải xây dựng một chính sách hướng tới tài trợ dự án xanh, bao gồm các khoản vay với lãi suất ưu đãi, kỳ hạn vay linh hoạt và thủ tục đơn giản hơn. Việc cung cấp các khoản vay với điều kiện đặc biệt cho các dự án xanh sẽ giúp tăng cường sự hấp dẫn của các dự án này với các nhà đầu tư, đồng thời củng cố vị thế của các NHTM trong lĩnh vực tài trợ cho các dự án xanh. Việc hỗ trợ đó sẽ giúp tăng cường sức mạnh tài chính của các đối tác và giúp cho các dự án xanh có khả năng được triển khai một cách nhanh chóng, hiệu quả.
Thứ hai, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu xanh khi nó đang trở thành một hình thức thay thế cho nguồn tín dụng truyền thống của các NHTM. Với những thay đổi tích cực hiện nay trong khung pháp lý đối với trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam cùng sự ra đời của trái phiếu xanh, các NHTM nên quan tâm, đẩy mạnh phát hành trái phiếu xanh với kỳ hạn dài, để tài trợ cho các dự án trung và dài hạn của họ.
Thứ ba, chủ động đưa ra các thông tin về tài chính xanh và các dự án xanh một cách minh bạch, rõ ràng để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Cụ thể là xây dựng hệ thống báo cáo tài chính xanh để đánh giá và quản lý tình hình tài chính xanh của các dự án một cách chuyên nghiệp.
Trong đó, cần cải thiện quá trình phân tích và đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong các dự án để đảm bảo rằng chỉ các dự án xanh, có tiềm năng bền vững được phê duyệt và tài trợ.
Thứ tư, tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực nhân viên về tài chính xanh và bền vững. Các nhân viên cần phải hiểu rõ những tiêu chuẩn, quy định về tài chính xanh, cũng như các khía cạnh môi trường và xã hội của các dự án.
Thứ năm, là chiến lược truyền thông hiệu quả để giới thiệu các thông tin về tài chính xanh và các dự án xanh của mình đến các nhà đầu tư. Việc quảng bá và giới thiệu tài chính xanh một cách rõ ràng và minh bạch sẽ giúp các NHTM thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư và nâng cao uy tín của mình trong cộng đồng tài chính xanh.
PV: Với nền tảng cơ sở hiện có, ông có dự báo gì về tiềm năng tăng trưởng xanh trong thời gian tới ở Việt Nam?
TS. Bùi Duy Tùng: Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển tài chính xanh mặc dù thị trường trái phiếu xanh vẫn còn mới mẻ và đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Việc phát triển tài chính xanh tại Việt Nam đang trở thành cấp thiết với tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng và nhu cầu phát triển bền vững.
Khi Việt Nam đặt ra mục tiêu phát triển bền vững theo các tiêu chí của Liên Hợp Quốc thì nhu cầu đầu tư cho các dự án phát triển bền vững cũng sẽ tăng lên. Ngoài ra, Việt Nam còn có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như gió, năng lượng mặt trời, thủy điện, và rừng, nhưng các dự án này cần có nguồn tài chính để triển khai và phát triển.
Sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, GEF, UNDP, và EU đã được cung cấp cho các dự án phát triển bền vững ở Việt Nam. Tuy nhiên, để phát triển tài chính xanh, cần có sự hợp tác giữa Chính phủ, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương. Việc có các chính sách và quy định cụ thể, rõ ràng và hiệu quả cũng rất quan trọng để thu hút đầu tư vào các dự án phát triển bền vững.
- Trân trọng cảm ơn ông!