Mỹ và các nước châu Âu đang vật lộn để ngăn chặn đại dịch, với nhiều bang và thành phố bị phong tỏa. Các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất ở châu Âu, như Italy và Tây Ban Nha, đã có hàng chục nghìn người dương tính với nCoV. Trong khi đó, số ca nhiễm bệnh được xác nhận ở Mỹ tăng gấp 10 lần trong một tuần, vượt qua mốc 50.000.
"Nói chung, điều này có ý nghĩa danh mục đầu tư của quý vị có thể nghiêng về phía Trung Quốc hoặc châu Á vì virus đang di chuyển từ khu vực đó sang phương Tây, nơi không may là nó chưa được ngăn chặn", ông Andrew Harmstone, một nhà quản lý danh mục đầu tư cao cấp tại Morgan Stanley cho biết.
Tuy nhiên, ông chỉ ra rằng phương Tây vẫn là khách hàng lớn nhất của Trung Quốc. Do đó, sự phục hồi toàn cầu là điều cần thiết để khôi phục đầy đủ nền kinh tế Trung Quốc. Theo vị chuyên gia, tác động kinh tế của đại dịch đã ảnh hưởng đến các doanh nghiệp ở Mỹ và nhiều doanh nghiệp nhỏ, vốn sử dụng khoảng 60% lực lượng lao động của đất nước, nhưng dòng tiền mặt chỉ đủ duy trì một tháng.
Dưới đây là một số lý do các nhà phân tích nghĩ rằng các nước châu Á có khả năng chuẩn bị tốt hơn để vượt qua khủng hoảng kinh tế so với phương Tây.
Kinh nghiệm đối phó dịch bệnh
Các trận dịch bệnh nghiêm trọng không phải là điều mới mẻ với các nước châu Á. Sự bùng phát của Covid-19 thường được so sánh với đại dịch SARS năm 2003, đã tấn công Trung Quốc, Hong Kong và Singapore. Kết quả là những nền kinh tế này cũng chịu suy thoái vì nó. Điều đó giúp các chính phủ có tâm thế tốt khi gặp những thảm họa tiếp theo.
"Các nền kinh tế châu Á đã học được bài học từ các cuộc khủng hoảng trong quá khứ và xây dựng các bảng cân đối ngân sách mạnh mẽ, vốn được triển khai để nâng đỡ nền kinh tế của họ trước những cú sốc bên ngoài", Lin Jing Leong, chuyên gia của Aberdeen Standard Investments, nhận định. "Điều này tạo vị thế tốt cho họ khi đối phó với đại dịch này", bà nói.
Các công ty châu Á có nhiều tiền mặt
"Các công ty châu Á có rất nhiều tiền", Siddhartha Singh, Giám đốc đầu tư chứng khoán châu Á tại PineBridge, nhận xét. Theo vị chuyên gia, hầu hết doanh nghiệp ở châu Á mà PineBridge theo dõi đã phản ứng với môi trường kinh doanh khó khăn trong hai năm qua bằng cách kiểm soát chi phí và kỷ luật trong chi tiêu vốn, cùng các biện pháp khác.
"Không có gì đáng ngạc nhiên khi so sánh 100 công ty hàng đầu ở các thị trường lớn tại châu Á và phương Tây để thấy nhiều công ty châu Á có vị thế tiền mặt. Điều này có nghĩa họ có khả năng tái đầu tư và giành thị phần một khi khủng hoảng đi qua", ông Siddhartha Singh phân tích.
Các ngân hàng trung ương châu Á còn room để giảm lãi suất
Lãi suất toàn cầu nhìn chung đã ở mức thấp, với một số quốc gia đã có lãi suất âm. Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương ở châu Á nói chung còn nhiều "vũ khí" để hỗ trợ nền kinh tế của họ, so với các đồng nghiệp ở Mỹ hay châu Âu. Nói cách khác, các ngân hàng trung ương châu Á còn nhiều room để cắt giảm lãi suất nhằm thúc đẩy nền kinh tế.
"Các nhà đầu tư không nên quên rằng lãi suất thực vẫn duy trì ở mức dương và lãi suất danh nghĩa thậm chí còn cao hơn ở nhiều thị trường châu Á và mới nổi, trái ngược hoàn toàn với các thị trường phát triển", bà Leong lưu ý.
Đây là vấn đề quan trọng bởi vì nó có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách châu Á còn chỗ để điều chỉnh. Nó cho phép các ngân hàng trung ương chủ động trong việc nới lỏng lãi suất, cung cấp thêm thanh khoản.
Theo các nhà phân tích, các ngân hàng trung ương ở Mỹ và châu Âu có thể đang cạn kiệt các công cụ. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã giảm lãi suất cơ bản ba lần vào năm 2019, với tổng số 75 điểm cơ bản. Sau đó, họ đã giảm lãi suất cơ bản về 0 vào tháng 3/2020, sau hai lần cắt giảm khẩn cấp. Lãi suất cơ bản tại Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng đã âm.