Chuyển đổi khu công nghiệp xanh: Dấu chân Carbon và những rào cản doanh nghiệp cần vượt qua để đến Net Zero
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đã mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Xu hướng chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, tạo nên những thay đổi sâu rộng trong cách thức vận hành và phát triển của nhiều lĩnh vực.
Không nằm ngoài xu thế đó, các khu công nghiệp tại Việt Nam đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi toàn diện để nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ chân khách hàng, nhà đầu tư, song song với thu hút thêm dự án đầu tư mới, đặc biệt là những dự án công nghệ cao, quy mô lớn với dòng vốn xanh.
"Khu công nghiệp xanh" là mô hình khu công nghiệp được Nhà nước chủ trương phát triển trong giai đoạn 2025 – 2030 với mục tiêu bảo vệ môi trường, đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Những yêu cầu về tăng trưởng xanh và bền vững đòi hỏi các khu công nghiệp sớm có những giải pháp, khuyến khích doanh nghiệp sản xuất sạch, thân thiện môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên; kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy lợi ích kinh tế.
Hiện nay, các khu công nghiệp truyền thống tại Việt Nam cũng đã và đang có sự chuyển mình mạnh mẽ sang khu công nghiệp sinh thái. Tuy nhiên, thực tế các khu công nghiệp trên cả nước vẫn loay hoay chưa tìm ra lời giải nhằm cân bằng giữa kinh tế, môi trường và xã hội do còn nhiều vướng mắc.
Cùng nhìn nhận rõ hơn những thách thức của các khu công nghiệp đang gặp phải trong quá trình chuyển đổi xanh và đưa ra các giải pháp phù hợp, Reatimes đã có cuộc trao đổi với Ths.KTS Nguyễn Hoàng Phương, chuyên gia cấp cao tại CTCP Net Zero Việt Nam.
PV: Là một nhà chuyên môn tâm huyết với không gian xanh, xin ông chia sẻ về vai trò của việc phát triển khu công nghiệp theo mô hình xanh?
Ths. KTS Nguyễn Hoàng Phương: Việc phát triển khu công nghiệp theo mô hình xanh có vai trò quan trọng ở nhiều khía cạnh.
Đầu tiên, vai trò đối với môi trường. Điều chúng ta có thể nhìn nhận trực diện nhất là việc phát triển khu công nghiệp xanh sẽ giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường. Cụ thể: Giảm chất thải công nghiệp, giảm ô nhiễm, giảm hóa chất độc hại, giảm phát thải khí nhà kính giúp tăng chất lượng cuộc sống cho cộng đồng. Đồng thời tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ứng dụng các công nghệ cao, thân thiện trong các hoạt động sản xuất và xử lý rác thải.
Tiếp theo, khu công nghiệp xanh là lời giải cho bài toán ESG của doanh nghiệp thế hệ mới. ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) đang là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp vì những yếu tố này không chỉ phản ánh cam kết trách nhiệm xã hội mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của mỗi tổ chức. Việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG giúp doanh nghiệp xây dựng hình ảnh tích cực, nâng cao uy tín.
Đối với nền kinh tế đất nước, xu hướng phát triển các khu công nghiệp xanh trở thành yếu tố then chốt giúp Việt Nam thu hút các nhà đầu tư quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe. Những nhà đầu tư nước ngoài đều tìm kiếm các khu công nghiệp sinh thái, nơi có khả năng số hóa hiệu quả và áp dụng công nghệ cao. Do đó, nếu không nhanh chóng chuyển đổi, các khu công nghiệp có thể bỏ lỡ cơ hội đón nhận những làn sóng đầu tư mới.
PV: Rõ ràng, phát triển khu công nghiệp xanh không chỉ mang ý nghĩa quan trọng mà còn là xu thế tất yếu, đòi hỏi chúng ta phải chủ động chuyển đổi. Với kinh nghiệm của ông trong việc tham gia thiết kế, tư vấn cho nhiều khu công nghiệp, ông đánh giá như thế nào về thực trạng triển khai mô hình khu công nghiệp xanh hiện nay?
Ths. KTS Nguyễn Hoàng Phương: Tại Việt Nam, mô hình khu công nghiệp sinh thái đã được hình thành từ năm 2014 với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Sự thay đổi rõ rệt nhất hiện nay là nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp khu công nghiệp về phát triển theo hướng bền vững, giảm phát thải ra môi trường đã được nâng lên rõ rệt.
Hiện tại một số khu công nghiệp đã bắt kịp theo xu hướng, chủ động chuyển đổi mô hình khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp xanh. Doanh nghiệp thực hiện tối ưu hóa quy trình sản xuất, sử dụng năng lượng tái tạo và áp dụng công nghệ tiên tiến như đầu tư hệ thống xử lý nước thải tuần hoàn dùng cho tưới tiêu nông nghiệp hay trồng diện tích cây xanh lớn để hấp thụ carbon.
PV: Xin ông chia sẻ rõ hơn về những khó khăn các doanh nghiệp đang còn vướng mắc khi thực hiện chuyển đổi khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp xanh?
Ths. KTS Nguyễn Hoàng Phương: Một trong những khó khăn lớn hiện nay trong việc phát triển khu công nghiệp xanh chính là: Chủ đầu tư thường phải đi trước một bước trong việc xây dựng xanh, bao gồm hệ thống xử lý nước thải, phát triển hạ tầng xanh, cải tạo mặt bằng, và đầu tư vốn lớn – chủ yếu từ nguồn tự có hoặc vay ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế, số lượng các doanh nghiệp đến thuê đất làm nhà máy nếu không đạt như kỳ vọng, dẫn đến thua lỗ kéo dài. Trong khi đó, chi phí lãi vay ngân hàng lại ngày một gia tăng, ăn mòn hết lợi nhuận, khiến nhiều chủ đầu tư rơi vào thế khó và không thể tiếp tục duy trì mô hình khu công nghiệp xanh.
Trong khi đó, các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu vào thị trường châu Âu (EU) – những đơn vị cần đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường xanh khắt khe nhất – hiện vẫn đang phân tán ở nhiều địa phương, chưa được tập trung trong các khu công nghiệp. Việc di dời và tái đầu tư để chuyển các nhà máy này vào các khu công nghiệp, theo đuổi mục tiêu "xanh hóa" lại tốn kém, thiếu động lực tài chính. Điều này tạo ra một khoảng cách giữa nhu cầu thực tiễn và định hướng phát triển bền vững.
Để thu hẹp khoảng cách đó, cần có sự can thiệp chính sách từ Nhà nước, đặc biệt là thông qua các công cụ điều tiết như ưu đãi thuế và tín dụng xanh. Song song, từng địa phương cần xây dựng quy hoạch chi tiết dựa trên dữ liệu lớn (big data) xác định rõ doanh nghiệp nào có sản phẩm xuất khẩu vào EU, nhà máy nào đang vận hành, và khu công nghiệp nào đang đầu tư theo hướng xanh trên địa bàn để cung và cầu gặp nhau. Trên cơ sở đó, các bên liên quan từ doanh nghiệp phát triển bất động sản công nghiệp, doanh nghiệp có nhu cầu thuê nhà máy cần phối hợp chặt chẽ, cùng ngồi lại đàm phán để hướng tới một mục tiêu chung. Mục tiêu đó không chỉ là phát triển hiệu quả kinh tế, mà còn là hiện thực hóa các cam kết giảm phát thải khí nhà kính theo tiêu chuẩn ISO 14064.
Một vấn đề khác đặt ra là, mặc dù một số khu công nghiệp đã bắt kịp xu hướng chuyển đổi xanh, thể hiện qua việc đầu tư hệ thống xử lý nước thải tuần hoàn phục vụ tưới tiêu nông nghiệp, trồng cây xanh trên diện tích lớn để hấp thụ carbon… Tuy nhiên, để thực sự đáp ứng yêu cầu quốc tế, các khu công nghiệp này cần lập Báo cáo phát thải khí nhà kính theo tiêu chuẩn ISO 14064 và công khai báo cáo này với cơ quan chức năng.
Chỉ khi có báo cáo phát thải khí nhà kính đạt chuẩn, các khu công nghiệp mới có thể sử dụng số liệu này làm đầu vào để tính toán dấu chân Carbon (CFP) của các sản phẩm xuất khẩu được sản xuất tại đây. Nếu không đáp ứng yêu cầu này, việc thu hút các nhà máy vào thuê đất sẽ gặp nhiều khó khăn. Báo cáo theo tiêu chuẩn ISO 14064 không chỉ là một tiêu chí quan trọng mà còn là điều kiện cần để hấp dẫn các doanh nghiệp xuất khẩu và các nhà máy có nhu cầu thuê đất trong khu công nghiệp theo định hướng phát triển bền vững.
Ở chiều ngược lại, các khu công nghiệp có quỹ đất cho các nhà máy thuê cũng phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các nhà máy này, yêu cầu họ công khai Báo cáo phát thải khí nhà kính theo tiêu chuẩn ISO 14064. Điều này nhằm đảm bảo toàn khu công nghiệp không vi phạm các thông số chung về phát thải.
Chỉ cần một nhà máy không tuân thủ quy định về phát thải khí nhà kính, toàn bộ khu công nghiệp có thể mất đi sự đạt chuẩn, ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà máy khác và gây tổn hại lớn đến giá trị xuất khẩu của sản phẩm.
Do đó, trong những năm tới, việc bắt buộc có Báo cáo phát thải khí nhà kính theo tiêu chuẩn ISO 14064 sẽ trở thành mục tiêu chung và là điều kiện tiên quyết để phát triển theo hướng xanh hóa. Nếu không đáp ứng được yêu cầu này, các khu công nghiệp và cả doanh nghiệp có hàng xuất khẩu sang khối EU cũng khó tồn tại trước áp lực của thị trường và xu hướng tất yếu của cung – cầu.
PV: Như ông phân tích, Báo cáo phát thải khí nhà kính theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 14064 lầ yêu cầu bắt buộc mà mỗi khu ông nghiệp và các nhà máy đặt trong khu công nghiệp cần có. Vậy đâu là rào cản lớn khi thực hiện điều này thưa ông?
Ths. KTS Nguyễn Hoàng Phương: Hiện nay, chúng ta vẫn chủ yếu sử dụng các khái niệm mang tính định tính, thiếu những tiêu chí định lượng cụ thể, dẫn đến sự lúng túng trong quá trình thực thi. Các văn bản pháp lý hiện hành chưa đưa ra các tiêu chuẩn rõ ràng và các thông số tối thiểu mà các nhà máy và khu công nghiệp phải đạt được. Do đó, phần lớn chủ đầu tư chỉ làm theo cách hiểu của riêng mình và tự công nhận là đạt chuẩn, thay vì tuân theo một hệ thống đánh giá thống nhất.
Trong khi đó, Báo cáo phát thải khí nhà kính theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 14064 – vốn sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc đối với mọi nhà máy và khu công nghiệp – lại chưa được phổ biến rộng rãi. Hiện nay, chỉ có rất ít doanh nghiệp bắt đầu triển khai việc lập hồ sơ khai báo này. Tôi cho rằng, nếu không có sự thay đổi từ chính sách và nâng cao nhận thức trong cộng đồng doanh nghiệp, quá trình chuyển đổi xanh sẽ tiếp tục gặp nhiều trở ngại và thiếu tính đồng bộ.
PV: Nếu tiếp tục mô hình khu công nghiệp truyền thống thì hệ luỵ sẽ như thế nào?
Ths. KTS Nguyễn Hoàng Phương: Khu công nghiệp truyền thống không chỉ gây ô nhiễm không khí, nước và đất do tiêu thụ năng lượng và nguyên liệu không hiệu quả, mà còn tạo ra lượng lớn khí thải nhà kính, góp phần vào biến đổi khí hậu. Mô hình này thường thiếu các biện pháp kiểm soát môi trường chặt chẽ, dẫn đến suy giảm chất lượng sống của cộng đồng xung quanh và gia tăng chi phí xử lý ô nhiễm trong dài hạn.
Ngược lại, khu công nghiệp bền vững không chỉ áp dụng công nghệ sạch, tái sử dụng và tái chế nguyên liệu để giảm thiểu chất thải và phát thải, mà còn tối ưu hóa sử dụng tài nguyên, bảo vệ nguồn nước và đa dạng sinh học. Ngoài ra, mô hình này còn thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo, cải thiện hiệu suất sản xuất và giảm chi phí vận hành, giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về phát triển bền vững.
Việc tiếp tục mô hình khu công nghiệp truyền thống về mặt bản chất chỉ là sự trì hoãn về mặt thời gian xu hướng xanh hoá này. Hiện tại, mô hình này vẫn có thể đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và nhà máy chưa chịu tác động từ hàng rào thuế carbon. Tuy nhiên, với cam kết Net Zero vào năm 2050, Việt Nam cần chủ động xây dựng lộ trình xanh hóa khu công nghiệp trên cả nước, thay vì chờ áp lực từ bên ngoài.
Những khu công nghiệp và nhà máy chậm trễ trong việc lập báo cáo phát thải khí nhà kính sẽ đối mặt với nhiều thách thức, từ việc bị xếp hạng thấp theo tiêu chuẩn ESG đến khó tiếp cận các nguồn tín dụng xanh. Điều này có thể làm giảm khả năng cạnh tranh và ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài.
Thay vì chờ đợi đến khi các quy định trở nên bắt buộc, doanh nghiệp nên chủ động chuyển đổi càng sớm càng có lợi, tận dụng cơ hội để thích nghi và phát triển bền vững trong bối cảnh thị trường ngày càng đề cao yếu tố xanh hóa.
PV: Vậy cần có giải pháp gì để thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi thưa ông?
Ths. KTS Nguyễn Hoàng Phương: Trong điều kiện hiện nay, khi nguồn điện chủ yếu vẫn đến từ lưới điện quốc gia và tỷ lệ sử dụng năng lượng mặt trời còn rất thấp, các khu công nghiệp chỉ có thể tập trung vào xử lý nước thải, phân loại và xử lý rác thải rắn, tối ưu hóa tiêu thụ năng lượng cho các tòa nhà, giám sát khí thải bằng IoT và tăng cường mảng xanh trong khuôn viên. Tuy nhiên, để triển khai được những giải pháp này cũng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn.
Nếu muốn tiếp cận các nguồn tín dụng xanh từ ngân hàng, các nhà máy và khu công nghiệp bắt buộc phải đạt các tiêu chuẩn ESG. Tuy nhiên, hiện nay, thiếu hướng dẫn cụ thể khiến doanh nghiệp khó nắm bắt điều kiện cần thiết để đáp ứng và đủ điều kiện vay vốn ưu đãi.
Vì vậy, các ngân hàng cần chi tiết hóa các tiêu chí về phát triển bền vững - ESG, giúp doanh nghiệp có lộ trình rõ ràng để tuân thủ. Đồng thời, Nhà nước cần có các đòn bẩy hỗ trợ, từ chính sách khuyến khích đến việc kết nối các doanh nghiệp xuất khẩu và nhà máy có nhu cầu thuê mặt bằng với các khu công nghiệp theo hướng xanh hóa. Nếu để các khu công nghiệp tự tìm kiếm khách hàng, chi phí và thời gian chờ đợi sẽ rất lớn, làm chậm quá trình chuyển đổi và giảm hiệu quả đầu tư.
Hiện nay, thị trường cũng đang thiếu hụt nghiêm trọng các đơn vị có đủ năng lực tư vấn và triển khai Báo cáo phát thải khí nhà kính theo tiêu chuẩn ISO 14064 cho các nhà máy và khu công nghiệp. Nguyên nhân là do việc định lượng chính xác lượng phát thải trong sản xuất công nghiệp đòi hỏi hạ tầng IoT theo thời gian thực, một bước chuyển đổi số phức tạp và yêu cầu trình độ kỹ thuật cao trong lĩnh vực công nghiệp. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp dù muốn tuân thủ nhưng vẫn gặp khó khăn trong quá trình thực hiện.
Dù còn nhiều thách thức, nhưng tiềm năng phát triển khu công nghiệp xanh tại Việt Nam là rất lớn. Để tận dụng cơ hội này, các doanh nghiệp cần chủ động đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật, hệ thống xử lý nước thải, rác thải và năng lượng tái tạo. Đồng thời, quy hoạch và thiết kế khu công nghiệp xanh cần được thực hiện đồng bộ, đảm bảo tối ưu hiệu quả vận hành, giảm phát thải và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!