Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu

Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu

Thứ Hai, 22/12/2025 - 06:20

Du lịch đã và đang được Quảng Ninh xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, giữ vai trò trung tâm trong chiến lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Với lợi thế nổi trội về cảnh quan thiên nhiên, hệ thống di sản tầm vóc quốc tế cùng nền tảng hạ tầng giao thông - du lịch ngày càng hoàn thiện, Quảng Ninh đang hội tụ đầy đủ các điều kiện để vươn lên trở thành điểm trung chuyển du lịch quan trọng của miền Bắc, hướng ra khu vực và thế giới.

Quyết định số 1169/QĐ-UBND ngày 17/4/2025 của UBND tỉnh Quảng Ninh, phê duyệt Đề án phát triển Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch kết nối khu vực và thế giới đến năm 2030, tầm nhìn 2045, mang ý nghĩa định hướng ngành và quyết tâm chính trị rõ nét trong việc tái định vị vai trò của du lịch trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Nhìn lại nhiều năm qua, Quảng Ninh đã lựa chọn cách tiếp cận bài bản, đầu tư có trọng tâm vào hạ tầng chiến lược. Hệ thống cao tốc liên vùng, cầu cảng, sân bay quốc tế, cùng các tổ hợp du lịch - nghỉ dưỡng - dịch vụ quy mô lớn đã từng bước hình thành một không gian phát triển mới, rút ngắn đáng kể thời gian kết nối và tạo lợi thế cạnh tranh rõ rệt trong thu hút dòng khách quốc tế có khả năng chi tiêu cao, phân khúc mà Quảng Ninh đang chủ động hướng tới.

Song song với hạ tầng, hệ sinh thái sản phẩm du lịch của tỉnh cũng được mở rộng theo hướng đa dạng và nâng cấp chất lượng, từ du lịch biển đảo, nghỉ dưỡng cao cấp, chăm sóc sức khỏe, văn hóa - tâm linh đến các sản phẩm trải nghiệm, giải trí và kinh tế đêm. Sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược đã góp phần làm thay đổi diện mạo điểm đến, đồng thời tạo thêm việc làm, sinh kế và động lực tăng trưởng mới cho địa phương.

Bước sang giai đoạn phát triển mới, với khát vọng vươn ra khu vực và thế giới, Quảng Ninh đang chuyển mình để tái định vị vai trò phát triển ngành du lịch, theo hướng ngày càng bài bản, khoa học và có chiều sâu hơn. Trong đó, tỉnh xác định phát triển công nghiệp văn hóa gắn với du lịch bền vững, nâng cao chất lượng trải nghiệm và từng bước khẳng định vị thế điểm đến quốc tế của du lịch miền Bắc.

Ngành du lịch Quảng Ninh đang bước vào một giai đoạn phát triển mới. Không còn dừng lại ở việc gia tăng số lượng du khách, ngành du lịch Quảng Ninh đang đặt nỗ lực nâng cao chất lượng, chiều sâu trải nghiệm và giá trị bền vững của điểm đến. Trong bối cảnh đó, việc chính quyền tỉnh chủ động rà soát, đánh giá lại toàn bộ quá trình phát triển du lịch đã thể hiện rõ quyết tâm đổi mới tư duy và cách tiếp cận trong việc phát triển, nâng tầm ngành du lịch của tỉnh.

Chia sẻ với Reatimes, PGS.TS Phạm Trung Lương, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Du lịch, thành viên Tổ chuyên gia Tư vấn Quy hoạch Quốc gia cho biết, theo quy hoạch Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Quảng Ninh đã xác định sẽ chủ động đổi mới toàn diện, mạnh mẽ tư duy phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, bao trùm đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường sinh thái; khai thác, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Đồng thời, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột: Thiên nhiên, con người, văn hóa kết hợp với tận dụng xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập, cơ hội mới và công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chuyển dịch mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, trong đó, không thể thiếu vai trò trụ cột của ngành du lịch.

“Thời điểm này, Quảng Ninh đang chủ động đánh giá lại quá trình phát triển du lịch, tôi cho rằng đây là điều cần thiết. Việc “tư duy mới” không phải là để phủ nhận những thành quả đã đạt được, mà là để chuẩn bị tốt hơn cho một con đường phát triển mới, hài hòa hơn và bền vững hơn”, PGS.TS Phạm Trung Lương nhận xét.

Theo ông, quá trình phát triển du lịch Quảng Ninh trong những năm qua mang tính chu kỳ khá rõ. Ở mỗi giai đoạn, du lịch của tỉnh đều đạt được những kết quả nhất định, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương. Trong thời gian dài, lợi thế nổi trội về tài nguyên, đặc biệt là Vịnh Hạ Long, đã giúp Quảng Ninh thu hút lượng lớn du khách, tạo đà tăng trưởng nhanh và ổn định.

Lượng khách tăng đều qua các năm, đã phản ánh được phần nào sức hấp dẫn cũng như đánh giá sự tăng trưởng, tuy nhiên để hiện thực hoá khát vọng trở thành trung tâm du lịch kết nối khu vực và thế giới, điểm đến không chỉ hấp dẫn du khách trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu thì những vấn đề liên quan đến chất lượng phát triển, tác động dài hạn đến cảnh quan, môi trường và trải nghiệm của du khách cần được nhìn nhận một cách sâu sắc hơn. Tỉnh Quảng Ninh đã nhận ra điều này và đang quyết liệt chuyển mình. Việc ngành du lịch tỉnh đang chủ động rà soát, đánh giá lại quá trình phát triển du lịch, trong mối liên hệ với bảo tồn di sản, thích ứng biến đổi khí hậu, phát triển công nghiệp văn hóa và nâng cao chất lượng trải nghiệm, chứng tỏ chính quyền đã có những bước đi đúng trên con đường phát triển du lịch bền vững. Trong đó, có việc khai thác có chiều sâu giá trị di sản - cảnh quan, là nền tảng để công nghiệp văn hoá trở thành trục phát triển bền vững, theo PGS.TS Phạm Trung Lương.

“Riêng với Hạ Long, giá trị quan trọng nhất vẫn là giá trị cảnh quan. Giá trị ấy đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận hai lần, và khi Vịnh Hạ Long được UNESCO ghi danh cùng với quần đảo Cát Bà, hệ giá trị di sản tiếp tục được khẳng định ở một tầm cao hơn. Ở cấp độ này, bên cạnh cảnh quan, di sản còn được bổ sung những giá trị đặc biệt về đa dạng sinh học, mà tiêu biểu là hệ sinh thái của Vườn quốc gia Cát Bà. Tuy nhiên, dù hệ giá trị được mở rộng hay nâng tầm đến đâu, thì cảnh quan vẫn là giá trị cốt lõi, là nền tảng làm nên sức hấp dẫn lâu dài và khác biệt của di sản”, PGS.TS Phạm Trung Lương phân tích.

Từ việc nhận diện đúng giá trị cốt lõi đó, theo ông, yêu cầu tiếp theo là cách tiếp cận quy hoạch và mức độ tuân thủ quy hoạch trong quá trình phát triển. Quy hoạch không chỉ là câu chuyện bố trí không gian xây dựng hay hạ tầng du lịch, mà sâu xa hơn, là cách con người tổ chức mối quan hệ hài hòa với tự nhiên, với hệ sinh thái của Vịnh Hạ Long.

Trong bối cảnh Quảng Ninh đang chủ động nâng tầm vị thế điểm đến, hướng tới thị trường quốc tế và xác định công nghiệp văn hóa là một trụ cột mới của du lịch bền vững, việc chuyển từ tư duy phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu trở thành yêu cầu tất yếu. Đây cũng chính là nền tảng để Quảng Ninh giữ vững vai trò là điểm đến hàng đầu trong nước, và từng bước định vị rõ hơn hình ảnh một trung tâm du lịch di sản - văn hóa có chiều sâu, đủ sức cạnh tranh trên bản đồ du lịch khu vực và quốc tế.

PV: Trong định hướng phát triển mới của ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh, việc khai thác hiệu quả giá trị di sản và cảnh quan đang được đặt ở vị trí “nền tảng” của công nghiệp văn hóa. Ông bình luận gì về hướng đi này?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Với Quảng Ninh, di sản và cảnh quan không chỉ là “tài nguyên du lịch”, mà là hệ giá trị gốc quyết định bản sắc và sức cạnh tranh của điểm đến. Trên nền ấy, công nghiệp văn hóa mới có “đất” để nảy nở, từ sản phẩm trải nghiệm, nghệ thuật biểu diễn, lễ hội, phim ảnh… cho tới các hoạt động sáng tạo gắn với không gian di sản.

Điểm mấu chốt là, cảnh quan tạo ra cảm xúc, di sản tạo ra giá trị và uy tín quốc tế, còn công nghiệp văn hóa tạo ra câu chuyện và chiều sâu trải nghiệm. Khi ba lớp này liên kết đúng, Quảng Ninh sẽ không những “đón khách” mà còn giữ khách, và khiến du khách muốn quay lại. Việc Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà được UNESCO ghi danh cũng củng cố thêm yêu cầu quản trị di sản theo chuẩn mực quốc tế, đặt bảo tồn và phát huy giá trị lên hàng đầu.

Quảng Ninh đang cho thấy một sự chuyển mình trong tư duy và tầm nhìn, du lịch không đơn thuần là tăng lượng khách, mà đang chuyển mạnh sang tư duy quản trị điểm đến và tổ chức lại không gian phát triển. Tỉnh đã có đề án và lộ trình cụ thể để trở thành trung tâm du lịch kết nối khu vực và thế giới đến năm 2030, tầm nhìn 2045; đồng thời định vị du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, “du lịch bốn mùa”. Đây là cách làm thể hiện tầm nhìn dài hạn, và rất quan trọng là nó tạo “khung” để công nghiệp văn hóa đi cùng du lịch bền vững, chứ không phát triển rời rạc.

Có thể nói, nếu chỉ ngắm cảnh, du khách mới “biết” Hạ Long, còn khi có các sản phẩm văn hóa được tổ chức tốt, du khách mới “hiểu” Hạ Long. Suy cho cùng, công nghiệp văn hóa là cách chuyển hóa di sản - cảnh quan - lịch sử - đời sống thành những sản phẩm trải nghiệm có giá trị gia tăng cao, như tổ chức show diễn, bảo tàng - triển lãm, nghệ thuật thị giác, âm nhạc, ẩm thực, không gian sáng tạo, kinh tế đêm, trải nghiệm không gian văn hoá cộng đồng… Nhưng làm công nghiệp văn hóa luôn phải gắn chuẩn chất lượng, chuẩn thẩm mỹ và chuẩn bảo tồn.

Chủ trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đã được đặt trong định hướng chung của ngành văn hóa - du lịch tỉnh Quảng Ninh, coi đây là động lực tạo sức bật cho sản phẩm và thị trường, trong đó du lịch là một “đầu ra” quan trọng của các sản phẩm đổi mới, sáng tạo.

Thực tế, Quảng Ninh đang có một “tổ hợp động lực” rất hiếm. Hệ thống di sản phong phú, độc đáo, tạo nền tảng cho công nghiệp văn hóa phát triển như một ngành kinh tế sáng tạo. Quảng Ninh hiện có 641 di tích, trong đó 8 di tích quốc gia đặc biệt, 56 di tích quốc gia, 101 di tích cấp tỉnh; đồng thời có 362 di sản văn hóa phi vật thể. Đây là “tài nguyên gốc” để hình thành những sản phẩm văn hóa - du lịch có chiều sâu, có câu chuyện, có bản sắc.

Bên cạnh đó là không gian văn hóa đa sắc của cộng đồng các dân tộc anh em, từ lễ cấp sắc của người Dao, then cổ của người Tày, tới Soóng cọ, lễ cầu mùa của người Sán Chỉ… Nếu biết tổ chức bằng tư duy công nghiệp văn hóa, những giá trị này sẽ trở thành sản phẩm trải nghiệm đặc sắc, có khả năng lan tỏa mạnh.

PV: Ông thấy, để phát huy giá trị của “nguồn vốn” di sản, Quảng Ninh đã làm được những gì?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Điều đáng mừng là Quảng Ninh đã bắt đầu nhìn thẳng vào những hạn chế của mình trong quá khứ. Du lịch vẫn sẽ là ngành mang lại nguồn thu chủ đạo cho tỉnh trong quá trình chuyển dịch từ “nâu” sang “xanh”. Ngành than đã và đang được điều chỉnh theo hướng giảm dần tác động tiêu cực. So với trước đây, hình ảnh tàu chở than đi qua Vịnh Hạ Long đã giảm đi rất nhiều, các điểm trung chuyển than tại khu vực Bãi Cháy - Hòn Gai cũng đã được thu hẹp. Điều đó cho thấy Quảng Ninh đang từng bước trả lại không gian cho du lịch và di sản, là một lựa chọn đúng để phát triển bền vững trong dài hạn.

Trong nhiều năm, du lịch Quảng Ninh cũng như không ít địa phương khác, chịu ảnh hưởng khá rõ của tính thời vụ, tập trung mạnh vào mùa hè với các sản phẩm du lịch biển đảo. Tuy nhiên, tỉnh cũng đang chủ động mở rộng không gian trải nghiệm, đưa các giá trị di sản, cảnh quan và văn hóa vào chuỗi sản phẩm du lịch theo hướng “du lịch bốn mùa”. Cách tiếp cận này giúp kéo dài thời gian lưu trú, phân bổ lại dòng khách trong năm và nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành du lịch, chứ không phụ thuộc vào một vài tháng cao điểm như trước.

Trên nền tảng đó, Quảng Ninh tăng cường tổ chức các sự kiện văn hóa, nghệ thuật, giải trí quy mô lớn vào mùa thấp điểm, coi đây là công cụ quan trọng để kích cầu và tái định vị trải nghiệm du lịch. Các chương trình lễ hội, trình diễn nghệ thuật, không gian giải trí về đêm được thiết kế ngày càng bài bản.

Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 1.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 2.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 3.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 4.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 5.

Quảng Ninh đang chủ động mở rộng không gian trải nghiệm, đưa các giá trị di sản, cảnh quan và văn hóa vào chuỗi sản phẩm du lịch theo hướng “du lịch bốn mùa”.

Đáng chú ý, các sản phẩm và sự kiện này cũng được định hướng phù hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế trong mùa đông, như khách từ ASEAN, Ấn Độ, Australia, Mỹ, là những thị trường có xu hướng du lịch nghỉ dưỡng, trải nghiệm văn hóa và giải trí trong dịp cuối năm. Việc chủ động tiếp cận các phân khúc này cho thấy Quảng Ninh đang từng bước gắn chiến lược “du lịch bốn mùa” với mục tiêu mở rộng thị trường quốc tế và nâng tầm vị thế điểm đến trong bối cảnh hội nhập.

Bên cạnh đó, Quảng Ninh đã nhận diện và có những bước đi ban đầu khá rõ ràng về vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu. Từ năm 2013, tỉnh đã xác định chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, coi du lịch, ngành công nghiệp “không khói” là một trụ cột quan trọng của quá trình chuyển đổi này. Quảng Ninh cũng đẩy mạnh phát triển các mô hình du lịch xanh, du lịch cộng đồng và sinh thái, khai thác hài hòa các giá trị tự nhiên, văn hóa và con người. Nhiều điểm đến như: Bình Liêu, Hải Hà, Tiên Yên, Móng Cái, Yên Đức (Đông Triều), các làng chài, hợp tác xã du lịch cộng đồng tại Hạ Long… đã mang đến những trải nghiệm mới mẻ cho du khách, đồng thời góp phần bảo tồn văn hóa bản địa, tạo sinh kế và giảm nghèo bền vững cho người dân.

PV: Ông có nhắc đến lý do cần nâng cao chất lượng trải nghiệm, để du khách chuyển từ “biết” sang “hiểu” những giá trị của di sản - cảnh quan khi đến với Quảng Ninh. Nhưng khi nhiều sản phẩm du lịch truyền thống đã dần trở nên quen thuộc, Quảng Ninh cũng đã, đang và cần như thế nào để giải "bài toán :này, thưa ông?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Thực tế hiện nay, nhiều người vẫn hình dung sản phẩm du lịch Hạ Long rất đơn giản là lên thuyền, ra vịnh, ngắm cảnh rồi quay về. Cách tiếp cận đó khiến du khách chỉ biết Hạ Long, chứ chưa thực sự hiểu Hạ Long. Vì vậy, không thể bỏ những sản phẩm du lịch truyền thống nhưng bắt buộc phải làm mới, tích hợp công nghệ để nâng cao chiều sâu trải nghiệm.

Quảng Ninh đang thực hiện chuyển đổi số du lịch, hướng tới hệ sinh thái du lịch thông minh, từ quản lý dòng khách, giám sát môi trường tới nâng trải nghiệm, với các sản phẩm trải nghiệm số, thuyết minh số, bảo tàng số. Đây là lớp hạ tầng “mềm” rất quan trọng để công nghiệp văn hóa bước vào kỷ nguyên mới và phải đẩy mạnh hơn nữa trong giai đoạn tới.

Nếu du khách chỉ ngồi thuyền ngắm vịnh thì họ khó có thể hiểu được giá trị của Hạ Long. Nhưng nếu thông qua công nghệ, họ có thể hình dung Hạ Long được hình thành như thế nào qua hàng triệu năm, cấu trúc địa chất ra sao, hệ sinh thái vận hành thế nào. Khi ấy, du khách rời Hạ Long sẽ mang theo hình ảnh đẹp, tri thức và cảm xúc về một di sản sống.

Bên cạnh việc tích hợp công nghệ để làm mới các sản phẩm truyền thống, thì liên kết vùng theo không gian tự nhiên và văn hóa chính là việc thứ hai để Quảng Ninh có thể thực sự làm mới hành trình khám phá và trải nghiệm du lịch của du khách, nhất là du khách quốc tế trong giai đoạn tới.

Ví dụ, Hạ Long và Cát Bà là một thực thể tự nhiên thống nhất, nhưng lại đang bị chia cắt bởi ranh giới hành chính. Vì vậy, các sản phẩm du lịch không nên bị bó hẹp trong địa giới tỉnh, mà cần được thiết kế liên tục theo ranh giới tự nhiên, để du khách có được trải nghiệm trọn vẹn các giá trị cảnh quan, địa chất, địa mạo và sinh thái của toàn vùng di sản.

Khi các tour du lịch được kéo dài sang Cát Bà, du khách sẽ có hành trình trải nghiệm có chiều sâu hơn, có chiều dài về lịch sử, văn hóa và đời sống cộng đồng. Muốn làm được điều đó, sản phẩm du lịch chỉ có thể hình thành trên cơ sở liên kết giữa Quảng Ninh và Hải Phòng.

Câu chuyện liên kết này còn mở rộng ra Yên Tử, ngoài Quảng Ninh còn gắn với Hải Phòng, thậm chí cả Bắc Ninh, trong một chỉnh thể lịch sử - văn hóa rộng lớn hơn. Nếu chỉ nhìn Yên Tử trong ranh giới hành chính, sẽ không thể hiểu hết chiều sâu giá trị của di sản này. Liên kết không làm mất đi lợi ích của địa phương, mà ngược lại, còn tạo ra giá trị gia tăng.

PV: Vậy còn những sản phẩm du lịch mới mà Quảng Ninh có thể phát triển là gì, thưa ông?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Để phát triển sản phẩm du lịch mới, Quảng Ninh vẫn đang xuất phát từ chính hệ giá trị di sản và không gian tự nhiên đặc thù mà địa phương đang sở hữu.

Thứ nhất, Quảng Ninh ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái theo nghĩa đầy đủ, gắn với các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù của vùng di sản. Sinh thái ở đây không chỉ là rừng hay cây xanh, mà bao gồm cả hệ sinh thái đá vôi, hệ sinh thái biển, hệ sinh thái dưới đáy biển và các vùng đệm ven bờ. Khi hiểu đúng và khai thác đúng các hệ sinh thái này, du lịch không chỉ dừng lại ở ngắm cảnh, mà trở thành quá trình khám phá, học hỏi và trải nghiệm có chiều sâu.

Ví dụ, sản phẩm mới của Hạ Long cần hướng vào hệ sinh thái một cách toàn diện: Từ hệ sinh thái trên núi đá, dưới lòng biển, cho đến sinh thái nhân văn, tức là cách con người sinh sống, thích nghi và tạo dựng văn hóa trong chính không gian tự nhiên đó.

Thứ hai, tiếp tục mở rộng hơn nữa không gian sản phẩm ra ngoài khu vực trung tâm Hạ Long, đặc biệt là Vịnh Bái Tử Long và vùng đồi núi phía tây của tỉnh. Vườn quốc gia Bái Tử Long có những giá trị thú vị cần quảng bá rộng rãi hơn, như việc đây là một trong ba nơi hiếm hoi có rùa biển đẻ trứng trong tự nhiên ở Việt Nam. Khu vực Bình Liêu và vùng đồng bào dân tộc thiểu số phía tây Quảng Ninh cũng sở hữu những giá trị văn hóa - cảnh quan rất đặc sắc, hoàn toàn có thể đẩy mạnh hơn nữa các sản phẩm du lịch văn hóa cộng đồng, sinh thái núi rừng, kết hợp giữa biển và núi trong cùng một hành trình.

Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 6.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 7.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 8.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 9.

Quảng Ninh đang dần định hình ba nhóm sản phẩm chủ lực: Du lịch sinh thái gắn với hệ sinh thái di sản; du lịch văn hóa cộng đồng vùng đồng bào dân tộc thiểu số; và du lịch văn hoá tâm linh - di sản.

Thứ ba, với du lịch tâm linh, nếu làm đúng sẽ tạo ra trải nghiệm vừa trang nghiêm, linh thiêng, vừa giàu chiều sâu, đặc biệt với khách quốc tế thích khám phá bản sắc Á Đông. Quảng Ninh đã định hướng phát triển điểm đến tâm linh, đặt trong bức tranh chung cùng với MICE, sự kiện, nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe…Khi đặt trong “hệ sinh thái” như vậy, tâm linh không bị biến thành sản phẩm đơn tuyến, mà trở thành một phần của hành trình khám phá văn hóa. Đồng thời, những giá trị như Yên Tử không nên bó hẹp trong ranh giới hành chính, mà cần được nhìn nhận như một không gian lịch sử - văn hóa liên vùng, trong Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Qua đó, tạo ra các tuyến, chuỗi sản phẩm có chiều sâu về văn hóa, lịch sử và tâm linh.

Có thể nói, Quảng Ninh đang dần định hình ba nhóm sản phẩm chủ lực: Du lịch sinh thái gắn với hệ sinh thái di sản; du lịch văn hóa cộng đồng vùng đồng bào dân tộc thiểu số; và du lịch văn hoá tâm linh - di sản. Khi các nhóm sản phẩm này được tổ chức bài bản, liên kết tốt và gắn với thị trường phù hợp, du lịch Quảng Ninh sẽ mở rộng không gian trải nghiệm, nâng cao giá trị gia tăng và sức hút bền vững của điểm đến.

PV: Để đón dòng khách quốc tế, Quảng Ninh đã có những bước đi cụ thể nào đáng chú ý trong thời gian qua, thưa ông?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Có thể ghi nhận, Quảng Ninh đã chủ động và nhất quán trong việc chuẩn bị các điều kiện để thu hút khách quốc tế. Trước hết, là đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng chiến lược, từ sân bay Vân Đồn, hệ thống cao tốc liên vùng cho tới các cảng biển, bến tàu du lịch, giúp rút ngắn đáng kể thời gian kết nối và nâng cao khả năng tiếp cận điểm đến.

Bên cạnh đó, tỉnh cũng sớm định hướng phát triển các tổ hợp du lịch - nghỉ dưỡng - giải trí quy mô lớn, có khả năng đáp ứng các chuẩn mực dịch vụ quốc tế, đồng thời từng bước hình thành các sản phẩm du lịch bốn mùa, giảm tính thời vụ, là yếu tố mà nhiều thị trường quốc tế rất quan tâm.

Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 10.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 11.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 12.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 13.

Tỉnh cũng sớm định hướng phát triển các tổ hợp du lịch - nghỉ dưỡng - giải trí quy mô lớn.

Theo thống kê 11 tháng năm 2025, Quảng Ninh đón trên 19,8 triệu lượt khách du lịch, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2024, với trên 4 triệu lượt khách quốc tế. Đó là kết quả của nỗ lực đổi mới sản phẩm du lịch, đẩy mạnh xúc tiến tại các thị trường trọng điểm, đồng thời phối hợp với các hãng hàng không xây dựng gói kích cầu, tăng tần suất bay và mở rộng truyền thông hướng tới nhóm khách có mức chi tiêu cao. Thị trường Trung Quốc và Hàn Quốc là hai thị trường trọng điểm chính, với lượng khách phục hồi tích cực; riêng phân khúc MICE từ Trung Quốc ghi nhận nhiều đoàn quy mô 1.000 - 1.200 người lựa chọn Hạ Long làm điểm hội nghị kết hợp nghỉ dưỡng.

Song song với các thị trường truyền thống, Quảng Ninh mở rộng quảng bá sang châu Âu, Úc và Trung Đông, đồng thời thu hút du khách từ Ấn Độ với sản phẩm du lịch "đám cưới - tuần trăng mật". Các mô hình nghỉ dưỡng, giải trí cao cấp tại Hạ Long và Cô Tô được đánh giá phù hợp với phân khúc du khách có khả năng chi trả cao.

Điểm mạnh nhất của ngành du lịch Quảng Ninh nằm ở giá trị “di sản sống”, tạo ra một điểm đến có giá trị toàn cầu, nhưng không “đóng khung” trong tĩnh tại, mà di sản được bảo tồn bằng cách được hiểu đúng, trải nghiệm đúng và sáng tạo đúng. Cho nên, hội nhập quốc tế ở đây không chỉ là đón khách, mà là đưa sản phẩm văn hóa - du lịch của Quảng Ninh vận hành theo chuẩn quốc tế, từ hạ tầng, dịch vụ, quản trị, tới năng lực tổ chức sự kiện.

PV: Bên cạnh đó, theo ông, tỉnh Quảng Ninh đã tiếp cận bài toán nâng cao chất lượng du khách và giá trị trải nghiệm như thế nào trong thời gian qua?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Thực tế, tăng trưởng bền vững không chỉ được đánh giá bằng số lượt khách thuần túy, mà cần được đo lường bằng thời gian lưu trú, mức chi tiêu và tỷ lệ du khách quay trở lại.

Thời gian qua, Quảng Ninh đã từng bước điều chỉnh mô hình phát triển theo chiều sâu, thể hiện ở việc nâng cấp các sản phẩm truyền thống và mở rộng sang những loại hình/sản phẩm du lịch có hàm lượng trải nghiệm cao. Nhiều doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư tàu mới hiện đại, chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, kỹ thuật và bảo vệ môi trường.

Việc phát triển du lịch nghỉ dưỡng, du lịch hội nghị - hội thảo kết hợp nghỉ dưỡng (MICE), cùng các sản phẩm trải nghiệm văn hóa, sinh thái, tâm linh tại Bình Liêu, Ba Chẽ, Hoành Mô, Tiên Yên, Yên Tử, Cô Tô… đã góp phần kéo dài thời gian lưu trú và gia tăng mức chi tiêu trung bình của du khách, đặc biệt là khách du lịch quốc tế.

Như Đặc khu Cô Tô đang đẩy mạnh mô hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng xanh, xây dựng Làng du lịch thông minh, ứng dụng Zalo Mini App “Cô Tô Digital” cũng là một trong những giải pháp chuyển đổi số tiêu biểu trong ngành du lịch của tỉnh. Còn Yên Tử được đầu tư phát triển các sản phẩm trải nghiệm về thiền định, trekking rừng, khám phá di tích Ngọa Vân, các lễ hội văn hóa… Các sự kiện lớn như Giải chạy Ultra Trail Yên Tử, Lễ hội mùa thu Yên Tử thu hút hàng ngàn du khách trong và ngoài nước, giúp Yên Tử trở thành điểm đến bốn mùa.

Hạ tầng giao thông là một lợi thế của Quảng Ninh. Việc hoàn thiện hệ thống cao tốc kết nối Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái, đồng thời liên thông với Hà Nội và Hải Phòng, đã rút ngắn đáng kể thời gian di chuyển và nâng cao khả năng tiếp cận điểm đến của du khách. Sân bay quốc tế Vân Đồn cũng giúp Quảng Ninh kết nối trực tiếp với các thị trường quốc tế, thu hút nhóm khách chất lượng cao. Các cảng du lịch tại Hạ Long và Vân Đồn được nâng cấp cũng mở rộng không gian du lịch biển đảo, cho phép phát triển các tuyến tham quan, nghỉ dưỡng quy mô lớn và nâng tầm sản phẩm du lịch của tỉnh.

Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 14.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 15.

Hạ tầng giao thông phát triển là một lợi thế của du lịch Quảng Ninh. 

Liên quan đến giá trị trải nghiệm này, Quảng Ninh cần tính đến câu chuyện về "sức chứa" điểm đến. Trên Vịnh Hạ Long, phải xác định rõ ràng quy mô phát triển bao nhiêu là đủ, từ số lượng tàu du lịch, tuyến tham quan cho đến mật độ khai thác tại các điểm dừng chân trên vịnh, để không làm ảnh hưởng đến trải nghiệm của du khách đối với giá trị cảnh cao toàn cầu của điểm đến. Du khách đến Hạ Long là để cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh quan và không gian di sản, chứ không phải để chứng kiến cảnh tàu thuyền chen chúc nhau trên mặt vịnh. Ở đây, tôi mới chỉ nói đến giá trị cảnh quan, còn chưa tính đến các giá trị địa chất, địa mạo và sinh thái.

Việc tiếp theo là cần từng bước khôi phục những khu vực hệ sinh thái rừng ngập mặn ven bờ di sản. Rừng ngập mặn kết hợp với hệ sinh thái đáy biển, đặc biệt là hệ sinh thái san hô, tạo nên những giá trị rất lớn, không chỉ về thủy sản mà còn về du lịch. Khi các hệ sinh thái này được phục hồi, nguồn lợi sinh học sẽ tăng lên, và quan trọng hơn, du lịch cũng được hưởng lợi trực tiếp, bởi du khách, nhất là du khách quốc tế, luôn sẵn sàng trả giá cao để được trải nghiệm những không gian hoang sơ, tự nhiên và giàu giá trị sinh thái.

Ngoài Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh còn có Bái Tử Long với những giá trị lịch sử và cảnh quan rất lớn; không gian rừng núi phía Tây của tỉnh cũng là vùng đồng bào dân tộc thiểu số với nhiều giá trị cảnh quan đẹp và giàu bản sắc văn hoá.

PV: Ông có lưu ý gì trong định hướng đưa Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch kết nối khu vực và quốc tế, là “bàn đạp du lịch quốc tế” của miền Bắc?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Nếu xác định Quảng Ninh là “bàn đạp du lịch quốc tế” của miền Bắc, thì phải nhìn nhận, để thu hút khách quốc tế ngoài câu chuyện sản phẩm, còn phải giải bài toán tổng thể về thị trường, hạ tầng và quản trị điểm đến.

Trước hết, về thị trường, du lịch quốc tế phải được xác định là phân khúc chủ đạo trong dài hạn. Khách quốc tế, đặc biệt là các thị trường có mức chi tiêu cao và thời gian lưu trú dài thường có ý thức trong việc tôn trọng thiên nhiên, văn hóa và di sản. Đây chính là nhóm khách phù hợp với đặc điểm tài nguyên và định hướng phát triển bền vững của Quảng Ninh. Vì vậy, cách tiếp cận đúng phải là giảm số lượng, tăng chất lượng, tăng thời gian lưu trú và chi tiêu trung bình của du khách.

Thứ hai, mỗi thị trường quốc tế đòi hỏi những chương trình, trải nghiệm chuyên biệt, từ du lịch nghỉ dưỡng cao cấp, du lịch tàu biển, văn hóa - di sản, cho đến các sản phẩm trải nghiệm chiều sâu. Việc xây dựng sản phẩm phải song hành với việc lựa chọn và định vị thị trường mục tiêu.

Thứ ba, nếu muốn thực sự bật lên ở phân khúc quốc tế, hạ tầng cửa ngõ là yếu tố bắt buộc. Quảng Ninh cần một cảng du lịch quốc tế, đón được tàu lớn, có đầy đủ dịch vụ, thương mại, kết nối thuận tiện với các điểm đến trọng yếu. Khi tàu cập bến, du khách phải có trải nghiệm liền mạch, nhanh chóng và thuận tiện. Du khách quốc tế tàu biển thường chỉ lưu trú rất ngắn trên đất liền, nên việc kết nối nhanh từ cảng, sân bay đến các điểm như Hạ Long, Yên Tử, Cát Bà, Bình Liêu hay Cửa Ông phải nhanh chóng, thuận tiện. Kế hoạch nâng cấp sân bay quốc tế Vân Đồn đã có và cần nhanh chóng thực hiện, cả về năng lực khai thác lẫn cơ chế vận hành để thực sự trở thành cửa ngõ quốc tế của vùng.

Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 16.PGS.TS Phạm Trung Lương
Nếu muốn thực sự bật lên ở phân khúc quốc tế, hạ tầng cửa ngõ là yếu tố bắt buộc. Quảng Ninh cần một cảng du lịch quốc tế, đón được tàu lớn, có đầy đủ dịch vụ, thương mại, kết nối thuận tiện với các điểm đến trọng yếu.

Đồng thời, luôn cần sự tham gia của chính quyền tỉnh, trong quy hoạch, định hướng, hướng dẫn để doanh nghiệp tư nhân có thể đón tiếp khách đúng tầm, đúng chuẩn quốc tế. Doanh nghiệp tư nhân có thể có nguồn lực tài chính, nhưng về mặt quản lý thì không thể thả nổi. Đồng thời, Nhà nước cũng cần có các chính sách hỗ trợ thoả đáng cho doanh nghiệp tư nhân cùng đồng hành và phát triển.

PV: Vâng thưa ông, vai trò liên kết giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng là không thể thiếu. Vậy đâu là những chính sách tạo động lực cho doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu hơn vào phát triển hạ tầng và sản phẩm du lịch của Quảng Ninh?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp lớn đã và đang chủ động đầu tư rất mạnh mẽ vào hạ tầng du lịch của Quảng Ninh. Ví dụ như Sun Group đầu tư tuyến đường từ sân bay Vân Đồn về Hạ Long, thậm chí kéo dài tới Móng Cái, hoàn toàn bằng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nếu các thủ tục được hướng dẫn rõ ràng hơn, quy trình được phối hợp linh hoạt hơn, thì sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp phát huy hiệu quả đầu tư, cùng chung mục tiêu với chính quyền là nâng cao chất lượng dịch vụ, chất lượng trải nghiệm cho du khách.

Hay như trường hợp sân bay Vân Đồn, cũng là dự án do Tập đoàn Sun Group đầu tư 100% vốn, thời gian đầu, tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều chính sách hỗ trợ tích cực, chẳng hạn như bố trí phương tiện đưa đón khách từ sân bay về trung tâm du lịch.

Tinh thần này cũng phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết 68 - NQ/TW năm 2025. Với các doanh nghiệp lớn, tập đoàn lớn, họ thường đã có sẵn tầm nhìn chiến lược, mô hình vận hành hiện đại, thậm chí cả mạng lưới đối tác và thị trường quốc tế. Nhiều doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư và chủ động đưa khách về, nếu môi trường chính sách đủ rõ ràng và ổn định.

Theo đó, đề án phát triển du lịch cần có tầm nhìn dài hạn, tính kế thừa cao. Khi một đề án đã được phê duyệt, doanh nghiệp cần có niềm tin rằng định hướng đó sẽ được tôn trọng, dù có sự thay đổi về lãnh đạo các thời kỳ, để yên tâm đầu tư lâu dài.

Đề án phát triển du lịch cần có tầm nhìn dài hạn, tính kế thừa cao. Khi một đề án đã được phê duyệt, doanh nghiệp cần có niềm tin rằng định hướng đó sẽ được tôn trọng, dù có sự thay đổi về lãnh đạo các thời kỳ, để yên tâm đầu tư lâu dài.
Công nghiệp văn hoá gắn với du lịch bền vững: "Đường băng" đưa Quảng Ninh thành điểm đến của toàn cầu- Ảnh 17.PGS.TS Phạm Trung Lương

Bên cạnh đó là các chính sách ưu đãi cụ thể, như nâng thời hạn sử dụng đất từ 50 năm lên 70 năm. Cùng với đó là các chính sách thuế được thiết kế hợp lý theo vòng đời dự án, miễn, giảm trong những năm đầu vận hành, để doanh nghiệp có đủ dư địa tích lũy và tái đầu tư.

Muốn thu hút các nhà đầu tư chiến lược, Quảng Ninh cần tiếp tục phát huy tinh thần linh hoạt, cởi mở, tạo môi trường thủ tục hành chính thông thoáng, minh bạch và hiệu quả cho doanh nghiệp. Trên tinh thần đó, tôi tin Quảng Ninh sẽ huy động được nguồn lực rất lớn từ khu vực kinh tế tư nhân, tạo động lực mạnh mẽ cho du lịch phát triển bền vững và hội nhập quốc tế trong giai đoạn tới.

PV: Trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng đang đặt ra khá cao, nhiều địa phương cũng chịu áp lực phải “tăng tốc” trong ngắn hạn. Theo ông, Quảng Ninh nên thiết kế lộ trình chuyển đổi theo hướng du lịch chất lượng cao, trở thành trung tâm du lịch kết nối khu vực và quốc tế như thế nào để vừa bảo đảm nhịp tăng trưởng, vừa đi đúng quỹ đạo phát triển bền vững?

PGS.TS Phạm Trung Lương: Điều này thuộc về tư duy dài hạn, theo đề án, lộ trình rõ ràng. Ví dụ, trong 10 năm tới có thể từng bước chuyển từ du lịch đại trà sang phân khúc trung cấp; 10 - 15 năm tiếp theo mới tiến dần tới du lịch cao cấp. Đồng thời, các lựa chọn đều phải được luận chứng một cách khoa học: Vì sao chọn phân khúc này mà không chọn phân khúc khác; vì sao lộ trình này là phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội và nguồn lực của địa phương. Khi luận chứng đủ chặt chẽ và thuyết phục, phải kiên định với lựa chọn đó, đồng thời tôn trọng các định hướng đã được phê duyệt.

Như vậy, đề án phát triển du lịch cần mang tính khoa học cao và có giá trị kế thừa qua nhiều nhiệm kỳ lãnh đạo, chỉ điều chỉnh trong những giới hạn hợp lý khi điều kiện thực tiễn thay đổi. Mọi quyết định đều phải dựa trên luận chứng rõ ràng, được chứng minh bằng các phân tích khoa học và những con số cụ thể.

Về mặt quản lý nhà nước, phải luật hóa, thể chế hóa những gì chính quyền các nhiệm kỳ trước đã thống nhất thông qua, trên cơ sở đã có luận chứng khoa học đầy đủ. Khi cần điều chỉnh, thì vẫn có thể điều chỉnh, nhưng chỉ trong những giới hạn nhất định, dựa trên các căn cứ mới và những thay đổi của thực tiễn, chứ không được phủ nhận toàn bộ. Tính ổn định của chính sách là yếu tố then chốt để thu hút được nhà đầu tư, nhất là doanh nghiệp tư nhân, và cũng là điều kiện cần để Quảng Ninh phát triển với tầm nhìn dài hạn, bền vững.

Xin cảm ơn ông đã dành thời gian chia sẻ và đưa ra nhiều giải pháp tâm huyết!

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top