Nhu cầu du lịch tiếp tục tìm đến Nha Trang, Đà Nẵng, Phú Quốc
Theo ông Rudolf Hever, Giám đốc bộ phận Tư vấn Khách sạn, Savills Châu Á – Thái Bình Dương, trong năm 2016, Nha Trang đã đón gần 1,2 triệu lượt du khách quốc tế, tăng gần 23% so với năm 2015. Tương tự, lượt khách quốc tế đến Đà Nẵng cũng đã đạt gần 1,7 triệu, tăng 33% so với 2015. Góp phần vào những con số tích cực này, không thể không kể đến nỗ lực của chính quyền, khi hiện nay đã có 9 sân bay quốc tế trên cả nước so với 5 sân bay quốc tế vào năm 2010. Các sân bay này hiện vẫn đang tiếp tục được nâng cấp, mở thêm các nhà ga cũng như mở rộng đường băng.
Chính sách visa dành cho khách du lịch cũng cải thiện đáng kể, quy trình ngày càng dễ dàng hơn và mức phí thấp hơn so với trước đó. Trong đó, Phú Quốc là ví dụ thành công điển hình từ chính sách này. Lượt khách quốc tế đến với Đảo Ngọc đã tăng vọt 25% (2014 so với 2013) khi chính sách miễn thị thực cho du khách nước ngoài được áp dụng. Hiện tại Phú Quốc cũng là địa điểm duy nhất tại Việt Nam được áp dụng chính sách này.
Ông Rudolf Hever nhận định, các tín hiệu tích cực từ thị trường góp phần thúc đẩy sức hút và niềm tin từ các chủ đầu tư, dẫn đến cạnh tranh mạnh về nguồn cung trong 2 – 3 năm tiếp theo khi thị trường liên tục chứng kiến sự ra đời của các dự án mới.
Theo thống kê của bộ phận Tư vấn Khách sạn Savills, tại Nha Trang và Cam Ranh, nguồn cung khách sạn và resort từ phân khúc hạng trung đến hạng sang được dự đoán sẽ tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm là 29% trong ba năm tiếp theo. Tương tự, thị trường Đà Nẵng và Phú Quốc cũng có mức tăng trưởng nguồn cung mạnh mẽ, lần lượt đạt 30% và 27% trong thời gian 3 năm tới.
Tuy nhiên, ông Rudolf Hever cho rằng, thị trường BĐS mang tính chất dễ biến động và có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố. Điển hình vào thời điểm 2014 - 2015, lượng du khách quốc tế đến Việt Nam giảm mạnh do số lượng du khách Trung Quốc và Nga giảm sâu, ảnh hưởng từ việc tranh chấp biển Đông và đồng Rúp mất giá, đã tác động mạnh đến thị trường du lịch. Đặc biệt là đối với các thị trường phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn khách từ thị trường này như Nha Trang.
Do vậy, nếu như nguồn cầu không bắt kịp với tốc độ tăng trưởng nguồn cung, công suất và giá phòng trong tương lai được dự đoán sẽ tiếp tục chịu nhiều áp lực và chủ đầu tư sẽ phải cân nhắc cẩn thận về hiệu suất kỳ vọng và nguồn ngân sách cho dự án trong những năm sắp tới.
Những cân nhắc về mô hình Ngôi nhà thứ hai và “con cưng” condotel
Nhắc đến thị trường BĐS nghỉ dưỡng không thể không nhắc đến sự bùng nổ của xu hướng đầu tư các dự án Ngôi nhà thứ hai (Second Home). Hiện tại, có khoảng 36 dự án Ngôi nhà thứ hai (Second Home) cung cấp hơn 7.000 căn với mức giá từ trung đến cao cấp đang được vận hành tại Việt Nam. Thị trường BĐS được dự đoán sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ khi một làn sóng lớn nguồn cung Ngôi nhà thứ hai chủ yếu tập trung tại 6 địa điểm ven biển (Khánh Hòa, Đà Nẵng, Phú Quốc, Hồ Tràm, Hạ Long và Quảng Nam) gồm hơn 17.000 căn được đưa vào thị trường trong vòng 3 năm tới. Tuy nhiên số lương dự án hoàn thành vẫn còn rất khiêm tốn so với số lượng được chào bán trên thị trường.
Trong khi đó, căn hộ khách sạn (condotel) hiên tại là loại hình được ưa chuộng nhất trong các sản phẩm Ngôi nhà thứ hai. Dự báo, tính đến năm 2019, condotel sẽ chiếm 65% nguồn cung Ngôi nhà thứ hai tại các thị trường ven biển chính. Trong thời gian gần đây, ngày càng nhiều dự án được công bố, với sự cạnh tranh mạnh mẽ về quy mô cũng như những khoản cam kết lợi nhuận hấp dẫn. Các chủ đầu tư cũng nhanh chóng đặt tên cho dự án của họ tại các địa điểm du lịch là condotel.
Tuy nhiên theo Giám đốc bộ phận Tư vấn Khách sạn, Savills Châu Á – Thái Bình Dương, điểm cần lưu ý là phần “tel” (khách sạn) trong mô hình condotel.
Ông Rudolf Hever cho rằng, trong hầu hết các trường hợp, chúng tôi thấy được rằng rất ít các yếu tố quản lý vận hành như khách sạn được cân nhắc phát triển cho thành phần này. Điều này đặc biệt đáng lo ngại vì chủ đầu tư khó có thể đảm bảo phần lợi nhuận đã cam kết. Để tạo nguồn doanh thu chi trả cho cam kết, condotel phải được vận hành hoàn tòa như khách sạn và đạt kết quả hoạt động kinh doanh ấn tượng.
Thế nhưng, hầu hết các dự án đều chưa được hoạch định kỹ cho yếu tố vận hành và chính việc cạnh tranh gay gắt trong phân khúc này khiến các chủ đầu tư phải tăng cường quảng bá sản phẩm cũng như áp dụng chính sách cam kết lợi nhuận để thu hút người mua.
"Các sản phẩm với chương trình cam kết này ngày càng trở nên rủi ro hơn cho người mua, do một số chủ đầu tư ít kinh nghiệm nhưng phát triển dự án với quy mô lớn mà không có nguồn ngân sách mạnh mẽ như vốn chủ sở hữu hoặc hỗ trợ vốn từ ngân hàng.
Các rủi ro này chủ yếu đến từ việc vận hành sau khi đã hoàn thiện xây dựng dự án và trong trường hợp mức cam kết lợi nhuận cao hơn dòng tiền hoạt động kinh doanh thu về. Khi đó, chủ đầu tư cần phải bổ sung thêm nguồn vốn để đảm bảo cam kết. Hiện tại, tỷ lệ cam kết lợi nhuận tại Việt Nam hiện đang khá cao, một số dự án lên đến 12% trong 8 năm", ông Rudolf Hever nói thêm.
Do vậy, lời khuyên của ông Rudolf Hever là khi lựa chọn sản phẩm BĐS nghỉ dưỡng để đầu tư, người mua nên cân nhắc lựa chọn các sản phẩm có chất lượng từ các chủ đầu tư uy tín. Về phía chủ đầu tư khi lựa chọn mô hình phát triển, chủ đầu tư cần hoạch định tốt cũng như thực hiện nghiên cứu khả thi ngay từ ban đầu để có thể có được một sản phẩm phù hợp với điều kiện thị trường cũng như khả năng tài chính và đảm bảo vận hành tốt trong tương lai.