Aa

Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng: Đề nghị rà soát lại toàn bộ quy định về can thiệp sớm

Thứ Hai, 05/06/2023 - 12:02

Cơ quan thẩm tra của Quốc hội đề nghị rà soát lại quy định về can thiệp sớm theo hướng hạn chế tối đa sự hỗ trợ của Nhà nước hoặc phải có điều kiện rất cụ thể tại dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).

Sáng 5/6, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội họp toàn thể hội trường, nghe trình bày báo cáo thẩm tra dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã chỉ ra nhiều nội dung quan trọng của dự thảo Luật chưa đủ cụ thể, chưa phù hợp, cần phải tiếp tục được hoàn thiện.

Nhiều băn khoăn về biện pháp can thiệp sớm

Điều 144 dự thảo Luật quy định, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được can thiệp sớm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Xếp hạng dưới mức trung bình trở xuống theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; có nguy cơ mất khả năng chi trả, nguy cơ mất khả năng thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; bị rút tiền hàng loạt khi có nhiều người gửi tiền cùng đến rút tiền dẫn đến tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả và không tự khắc phục được theo quy định của Ngân hàng Nhà nước…

Tùy theo thực trạng, tính chất, mức độ rủi ro của tình trạng cần can thiệp sớm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước áp dụng một hoặc một số các biện pháp can thiệp sớm như: Hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần, chuyển nhượng tài sản; hạn chế hoạt động kinh doanh không hiệu quả, hạn chế các giao dịch lớn, có rủi ro cao; đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác có dấu hiệu vi phạm pháp luật; hạn chế thẩm quyền quyết định trong hoạt động kinh doanh của người quản lý, người điều hành…

Dự thảo Luật cũng kế thừa quy định về áp dụng can thiệp sớm tại Luật hiện hành và có sửa đổi, bổ sung để giải quyết những bất cập thời gian qua; bổ sung thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước tại giai đoạn can thiệp sớm; quy định một số biện pháp hiện nay đang áp dụng tại giai đoạn kiểm soát đặc biệt lên giai đoạn can thiệp sớm cho phép xử lý từ sớm, từ xa khi tình trạng yếu kém của tổ chức tín dụng chưa đến mức nghiêm trọng.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra. (Ảnh: Quốc hội)

Báo cáo thẩm tra dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, việc can thiệp sớm theo quy định của dự thảo Luật thực chất là xử lý tổ chức tín dụng đã lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Theo quy định hiện hành, tùy theo mức độ của từng tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp phù hợp như khuyến nghị, cảnh báo, giám sát tăng cường, can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt.

Tuy nhiên, hồ sơ dự án Luật chưa đánh giá thực trạng thực hiện giám sát tăng cường, những khó khăn, bất cập khi thực hiện biện pháp này để đề xuất đưa vào dự thảo Luật; chưa đánh giá, làm rõ được sự tương quan giữa các biện pháp từ giám sát tăng cường đến can thiệp sớm và kiểm soát đặc biệt dẫn đến không làm rõ được bản chất của việc “can thiệp sớm” để có những biện pháp, công cụ tương ứng phù hợp .

Ủy ban Kinh tế đề nghị rà soát lại toàn bộ các quy định tại Chương về can thiệp sớm theo hướng hạn chế tối đa sự hỗ trợ của Nhà nước hoặc phải có điều kiện rất cụ thể, đặc biệt là các giải pháp hỗ trợ vay tiền từ Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Hợp tác xã, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tổ chức tín dụng với lãi suất 0% và việc cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm.

Đối với các trường hợp cảnh báo sớm, cần rà soát, luật hóa những trường hợp thực hiện giám sát tăng cường mà đã được thực hiện ổn định, có hiệu quả trong thực tiễn để thể hiện đúng bản chất của việc “can thiệp sớm”, không chuyển các biện pháp xử lý trong trường hợp kiểm soát đặc biệt thành trường hợp can thiệp sớm.

Bên cạnh đó, cần tăng trách nhiệm của cổ đông/thành viên góp vốn, người quản lý, giám sát tổ chức tín dụng để xảy ra tình trạng tổ chức tín dụng yếu kém, đồng thời quy định chế tài đủ mạnh mẽ, quyết liệt đối với các đối tượng nêu trên để tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc, quy định về xử lý tổn thất, thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Lao động; phân định, quy định phù hợp biện pháp xử lý tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt…

Báo cáo cũng ghi nhận ý kiến đề nghị làm rõ mối liên hệ, sự tương quan giữa biện pháp can thiệp trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt (Điều 148) với các biện pháp can thiệp sớm (Điều 145) vì trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt là một trong các trường hợp áp dụng biện pháp can thiệp sớm nhưng hiện đang quy định 2 biện pháp riêng.

Ủy ban Kinh tế thấy rằng, sự cố rút tiền hàng loạt đòi hỏi phải xử lý khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời, khác với các trường hợp tổ chức tín dụng yếu kém qua theo dõi phải được can thiệp. Do vậy, Ủy ban đề nghị rà soát lại các quy định có liên quan đến các biện pháp can thiệp sớm và biện pháp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt; nghiên cứu quy định cụ thể hơn các biện pháp can thiệp trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt, bao gồm các biện pháp từ chính tổ chức tín dụng và từ phía Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan quản lý Nhà nước; bảo đảm rõ vai trò, trách nhiệm của các bên cũng như các biện pháp hiệu quả, phù hợp.

Nghiên cứu xây dựng luật riêng về ngân hàng chính sách

Một nội dung đáng chú ý khác của dự thảo Luật là ngân hàng chính sách. Theo đánh giá của Ủy ban Kinh tế, dự thảo Luật cơ bản kế thừa quy định về ngân hàng chính sách tại Luật hiện hành, theo đó, quy định ngân hàng chính sách là loại hình tổ chức tín dụng thuộc phạm vi điều chỉnh.

Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã chỉ ra nhiều nội dung quan trọng của dự thảo Luật chưa đủ cụ thể, chưa phù hợp, cần phải tiếp tục được hoàn thiện.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã chỉ ra nhiều nội dung quan trọng của dự thảo Luật chưa đủ cụ thể, chưa phù hợp, cần phải tiếp tục được hoàn thiện. (Ảnh minh hoạ: Bình An) 

Ủy ban Kinh tế đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các nguyên tắc như mục tiêu, mô hình hoạt động, quản trị, điều hành, cơ chế quản lý tài chính, các chỉ tiêu an toàn vốn, tổ chức lại, giải thể... để Chính phủ có cơ sở quy định chi tiết; bổ sung, hoàn thiện các quy định theo hướng luật hóa các quy định đã được áp dụng ổn định, đã được kiểm nghiệm thực tiễn; rà soát các quy định tại các luật có liên quan, bảo đảm không vướng mắc và đủ căn cứ pháp lý khi triển khai thực hiện; đồng thời, cần làm rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước; việc xử lý trong trường hợp khẩn cấp hoặc gặp khó khăn về thanh khoản.

Đáng chú ý, trong dài hạn, Ủy ban Kinh tế cho rằng cần nghiên cứu xây dựng luật riêng điều chỉnh loại hình ngân hàng chính sách.

Cẩn trọng với quy định giới hạn tín dụng

Về nội dung giới hạn tín dụng, dự thảo Luật đã điều chỉnh tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan tương ứng từ không được vượt quá 15% và 25% xuống còn 10% và 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; tương tự giảm từ 25% và 50% xuống còn 15% và 25% đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng.

Đối với vấn đề này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh đề nghị cân nhắc. Theo ông, việc giảm tổng mức dư nợ cấp tín dụng sẽ tác động ngay đến nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa thực sự là kênh huy động vốn ổn định cho nền kinh tế và còn nhiều rủi ro.

Quy định này cũng có thể tác động tiêu cực đến thu hút FDI của Việt Nam do giảm khả năng vay trong nước. Việc mở rộng định nghĩa về người có liên quan đồng thời với việc thu hẹp tổng mức tín dụng được cấp cho một khách hàng và người có liên quan sẽ gây tác động bất lợi kép cho cả khách hàng và ngân hàng. Trường hợp vay hợp vốn hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ sẽ mất thêm nhiều thời gian, thủ tục hơn do giới hạn cấp tín dụng thu hẹp hơn so với Luật hiện hành. Thông lệ quốc tế đều quy định ở mức tỷ lệ cao hơn (khoảng 25%) so với quy định tại dự thảo Luật.

Có ý kiến đề nghị trường hợp áp dụng quy định này cần có lộ trình cho các khoản vay và đối tượng đã vay vốn trước ngày Luật có hiệu lực để bảo đảm dòng vốn không bị dừng đột ngột, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Cần đánh giá kỹ lưỡng việc luật hóa Nghị quyết 42

Về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Kinh tế thấy rằng quy định tại dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở một số quy định tại Nghị quyết số 42 đã được kiểm nghiệm trên thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý nhằm xử lý nhanh nợ xấu, khơi thông nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, Nghị quyết số 42 là nghị quyết thí điểm được ban hành trong bối cảnh nợ xấu cao, phức tạp và tập trung trong một thời gian nhất định. Vì vậy, việc luật hóa các quy định của Nghị quyết số 42 cần được đánh giá kỹ lưỡng, thận trọng, đặt trong bối cảnh các quy định pháp luật hiện nay đã được hoàn thiện rõ ràng, đầy đủ hơn.

Ủy ban Kinh tế cho rằng cần đánh giá tổng thể, khách quan bối cảnh hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với công tác xử lý nợ xấu, từ đó hoàn thiện các quy định, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, tránh hành chính hoá quan hệ dân sự, kinh tế, bảo đảm hài hòa, công bằng với các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, kinh tế trên nguyên tắc chỉ luật hóa những nội dung phù hợp trong điều kiện bình thường./.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top