
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Khi kinh tế tư nhân mang khát vọng dân tộc trên vai, hãy mạnh dạn giao sứ mệnh lớn cho họ!
Đất nước đang chứng kiến những bước chuyển mình mạnh mẽ, đầy cảm hứng, khí thế và sự tự tin trước thềm bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Niềm tin vào tương lai tươi sáng bao trùm khắp xã hội, như một luồng gió mới thổi bùng lên khát vọng phát triển mạnh mẽ trong lòng mỗi người.
Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi, GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành về lịch sử, văn hóa, giáo dục ở nước ta, chia sẻ cảm xúc "rạo rực" của chính mình. Đây là một cảm giác đã âm ỉ trong ông suốt nhiều tháng qua, khi đất nước bắt đầu đón nhận những tín hiệu rõ ràng về vận hội mới. Đó không chỉ là sự chờ đợi, mà còn là niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng đang dần hiện ra, mở ra cơ hội để Việt Nam bước lên con đường mà cả dân tộc hằng mong đợi.
"Sự chờ đợi này là điều chưa từng xảy ra. Tuy nhiên, với tư cách là trí thức, ngoài việc giải thích những gì đã có và đang xảy ra, chúng tôi cũng luôn hướng đến việc dự đoán những gì sẽ đến. "Trí mạc đại ư tri lai" - đối với trí thức, không gì lớn lao hơn là đoán định được tương lai. Và rõ ràng, hiện nay chúng ta đang chứng kiến những dấu hiệu cho thấy sẽ có sự thay đổi và đó là một sự thay đổi tích cực", GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang chia sẻ kỳ vọng của mình.
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Cuộc trò chuyện đã đưa chúng tôi vào một hành trình ngược dòng lịch sử, nơi những lát cắt về kinh tế, văn hóa, xã hội đan xen, làm sáng tỏ những bước tiến của dân tộc qua từng thời kỳ. Đặc biệt, câu chuyện về thời vận của kinh tế tư nhân, từ sự nhận thức, phát triển đến sứ mệnh lớn lao của cộng đồng doanh nhân, trở thành một chủ đề xuyên suốt, không chỉ phản ánh hiện trạng, mà còn là định hướng để xây dựng một Việt Nam thịnh vượng, mạnh mẽ và tự chủ trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu.
Đó không chỉ là những lý thuyết hay mô hình phát triển, mà còn là sự thay đổi của tư duy đổi mới, sự kết hợp giữa những giá trị lịch sử lâu dài và khát vọng phát triển hiện đại. Vận hội mới này chính là một cuộc Đổi mới lần thứ hai, một bước ngoặt quan trọng để viết tiếp câu chuyện thành công của Việt Nam trong thế giới hiện đại.
- Tại sao chúng ta lại cần nhìn vào quá khứ để hiểu tương lai, thưa Giáo sư?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Câu nói tôi vừa đề cập - "Trí mạc đại ư tri lai" chỉ là một nửa của câu chuyện. Để hiểu rõ hơn, "trí" ở đây có nghĩa là người hiểu biết, là trí thức; còn "mạc đại ư tri lai" có thể hiểu là không có gì quan trọng hơn việc đoán biết điều chưa xảy ra, tức là khả năng biết trước tương lai.
Tuy nhiên, như người xưa đã nói: "Lai hà dĩ năng tri" - tương lai là thứ chưa đến, làm sao có thể biết trước được? Và rồi câu tiếp theo: "Cứ vãng dĩ suy" - chúng ta chỉ có thể dựa vào những gì đã qua để phán đoán về tương lai. Đây chính là bản chất của khoa học dự báo. Dự báo không phải là sự đoán mò, mà là khả năng phân tích những tham số và dữ liệu hiện có để đưa ra những nhận định. Chính vì vậy, tri thức của quá khứ, của lịch sử, luôn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp chúng ta dự báo tương lai.
- Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh các Nghị quyết số 57, 59, 66 và 68 là "Bộ tứ trụ cột" để giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Nghị quyết 68 ra đời, thể hiện bước tiến lớn trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta: "Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia".
Quan điểm này đánh dấu sự thay đổi sâu sắc trong nhận thức chiến lược về vai trò của khu vực tư nhân: Từ vị trí thứ yếu trở thành trụ cột phát triển, song hành cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo thành thế "kiềng ba chân" vững chắc cho nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập thành công. Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là yêu cầu về mặt kinh tế mà còn là mệnh lệnh chính trị, nhằm củng cố nền tảng tự chủ kinh tế quốc gia, nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thích ứng trong một thế giới đầy biến động. Như vậy, Nghị quyết 68 đặt nền móng cho sự chuyển biến toàn diện về chính sách phát triển kinh tế tư nhân: Từ việc "thừa nhận" sang "bảo vệ, khuyến khích, thúc đẩy", từ "bổ trợ" sang "dẫn dắt phát triển".
Thưa Giáo sư, những đổi mới, cải cách mà chúng ta đang triển khai không chỉ là yêu cầu khách quan của phát triển mà còn là mệnh lệnh từ tương lai dân tộc. Việc thay đổi quan điểm và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân nên được nhìn nhận như thế nào qua chiều dài lịch sử?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Để hiểu câu chuyện này từ góc độ lịch sử, trước tiên chúng ta cần nhìn nhận lại một số vấn đề cơ bản.
Thứ nhất, Việt Nam ta nằm trong một vùng ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa Khổng giáo. Các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam có nhiều nét tương đồng, đặc biệt là trong cách phân chia xã hội thành bốn giai cấp: Sĩ, Nông, Công, Thương.
Trong đó, cao nhất là Sĩ, tức là tầng lớp trí thức, những người đọc sách thánh hiền, có học vấn, hiểu biết về chữ nghĩa và là những người gánh vác trọng trách quản lý đất nước. Họ được coi là tinh hoa của đất nước, vì là đội ngũ quan lại, những người trực tiếp phục vụ triều đình và chính quyền.
Tiếp theo là Nông, tầng lớp nông dân, những người trực tiếp sản xuất ra lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp nuôi sống xã hội. Quan niệm "dĩ thực vi tiên" nhấn mạnh rằng dân cư phải no ấm mới có thể ổn định xã hội, bởi vậy nông dân được xem là trụ cột của quốc gia và đứng ở vị trí thứ hai trong tứ dân.
Thứ ba là Công, tức những người làm thủ công nghiệp, sản xuất hàng hóa và tạo ra của cải vật chất cho xã hội, giúp nền kinh tế thêm phong phú và năng động hơn.
Cuối cùng là Thương, tức những người buôn bán, hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp. Trong xã hội xưa, tầng lớp này bị xếp cuối cùng trong "tứ dân" vì theo tư duy Khổng giáo, họ không tạo ra giá trị gia tăng từ lao động sản xuất mà chỉ từ "nước bọt", từ lời nói "hoạt ngôn" của mình. Chính vì vậy, trong dân gian có câu "Phi công bất phú, phi thương bất hoạt" - không có sản xuất thì không thể giàu, không có thương mại thì kinh tế không thể lưu thông. Dù thương nhân có vai trò quan trọng nhưng vẫn bị coi là hạng thấp.
"Phú" không phải nhờ thương nhân, mà là nhờ những người sản xuất ra của cải vật chất, người làm công nghiệp, thủ công nghiệp. Còn thương nhân chỉ giúp việc buôn bán, lưu thông hàng hóa linh hoạt hơn, như mạch máu của nền kinh tế. Do đó, thương nhân vẫn là một trong tứ dân, nhưng không được đề cao.
Thứ hai, đất nước ta trong lịch sử đằng đẵng hàng nghìn năm thì có lẽ đến 90% người dân làm nông nghiệp lúa nước với phương thức "con trâu đi trước, cái cày theo sau". Người làm thủ công nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ và thương nhân cũng không có nhiều. Chính vì vậy, tư duy đám đông đã áp đặt lên tất cả các tầng lớp, bao gồm cả trí thức. Người ta quan niệm rằng nhóm "Sĩ" này chỉ suốt ngày giấy bút chữ nghĩa, ăn trắng mặc trơn, trói gà không chặt…, nếu không có hạt cơm thì "đói rã họng". Và như vậy, tư duy "ba bát cơm" đã chi phối tất thảy.
Khi có sự áp đặt tư duy đến như vậy, thương nhân - những người xếp cuối cùng trong tứ dân, có được coi ra gì? Họ thường bị gắn với rất nhiều tính xấu, mà có thể thấy trong các câu chuyện dân gian hay những tích trò…, bao giờ hình ảnh thương lái cũng là nhân vật lươn lẹo, gian xảo và hợm của…
Ảnh: Buổi cày ruộng ở Nam Bộ xưa. (Nguồn: Kinh tế & Đô thị)
Những quan niệm như vậy đã trở thành định kiến chi phối tư duy chung của xã hội và sự ảnh hưởng của đám đông thường tác động mạnh mẽ đến cá nhân, đôi khi khiến họ thay đổi suy nghĩ của chính mình. Đã có những thí nghiệm tâm lý học chứng minh sự "ảnh hưởng của xã hội", hay chính là đám đông, có thể chi phối và tác động mạnh mẽ khiến cá nhân có khi phải thay đổi suy nghĩ, nhận thức của chính họ.
Còn một yếu tố lịch sử quan trọng khác là Việt Nam có nền nông nghiệp chiếm ưu thế, nên triết lý "dĩ nông vi bản" - lấy nông nghiệp làm gốc, đã ăn sâu vào nhận thức xã hội. Điều này kéo theo sự coi nhẹ các ngành nghề khác, nhất là thương mại.
Đặc biệt, còn có một yếu tố đáng chú ý của di tồn văn hóa mà nếu không nghiên cứu sâu sẽ không hiểu rõ. Đó là trong suốt chiều dài lịch sử, do phải đối diện với quá nhiều biến động, những thử thách hiểm nghèo thường xuyên xảy ra, nên dân tộc này hình thành một sự tự vệ mang tính bản năng, phải giữ sự cố kết cộng đồng và tạo nên truyền thống không chùn bước trước khó khăn. Nhưng khi những áp lực khách quan có phần thuyên giảm thì sự cố kết ấy cũng có phần lơi lỏng. Như một phản ứng sinh tồn có phần tự phát, những điều tiết vô thức để cộng đồng luôn giữ được trạng thái sẵn sàng tái cố kết khi hiểm họa ập đến đã hiện hình qua tâm lý ghét trội vượt, đề cao chủ nghĩa bình quân, với những quan niệm vô lý nhưng được thừa nhận bới đám đông, kiểu như "xấu đều hơn tốt lỏi", "dàn hàng ngang cùng tiến"… Tư duy "truyền thống" này không khuyến khích hoạt động làm giàu, rất xa lạ với hoạt động đi buôn kiếm lời.
Như vậy, suốt cả một thời gian dài trong quá khứ, Việt Nam không có môi trường thuận lợi cho thương nhân và doanh nghiệp phát triển. Ngay cả trong các triều đại thịnh vượng như nhà Lê hay nhà Nguyễn, khi các xưởng sản xuất thủ công lớn cũng chỉ hoạt động dưới sự quản lý của nhà nước, dưới dạng các quan xưởng, ở đó người đứng đầu là một viên quan có hàm cấp, phẩm trật, không cần biết gì về sản xuất, kinh doanh. Người giỏi nhất về chuyên môn chỉ luôn làm cấp phó. Điều này đã kìm hãm sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế.
Và cuối cùng, chính vì nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng như thế, Nhà nước phải duy trì tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong tay mình - đó là ruộng đất. Nhà nước luôn có chính sách bảo hộ và duy trì công điền, tức là đất đai do Nhà nước quản lý, việc giao ruộng đất cho tư nhân, nhất là ở miền Bắc là rất khó khăn. Bởi vậy, Việt Nam là nước tồn tại công điền dày đặc, tỷ lệ cao và có thể nói vào hàng lâu nhất thế giới. Sau Cách mạng Tháng Tám, trong quá trình cải cách ruộng đất, một số vùng như Nam Định có tới một nửa diện tích là công điền. Lý do này giải thích tại sao việc hình thành nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam lại gặp rất nhiều khó khăn.
Đó là lịch sử. Và chừng ấy yếu tố để chứng minh rằng, tư duy nhận thức về doanh nghiệp, doanh nhân từ xa xưa đã không tốt đẹp và kinh tế tư nhân phát triển được ở xứ này là điều cực kỳ khó khăn.
- Trong suốt chiều dài lịch sử, khi tư duy "ba bát cơm" có sức nặng như vậy, đất nước ta được xem như "cái nôi của nền văn minh lúa nước", còn công thương nghiệp không được đề cao, thậm chí bị coi thường.
Nền kinh tế của chúng ta đã "đi đâu về đâu", ông có thể chia sẻ những lát cắt đáng chú ý?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Trong lịch sử, Việt Nam cũng có những thời điểm nền kinh tế phát triển hưng thịnh. Một trong những giai đoạn đáng chú ý là thời kỳ Lý - Trần và sau đó là một phần của thời Mạc và Hậu Lê.
Thời Lý - Trần (1009 - 1400), trước thực trạng đất bãi bồi còn rất nhiều, triều đình đã ban hành chính sách cho phép quý tộc, quan lại chiêu mộ dân ly tán đi khai hoang và lập điền trang tư nhân. Điều này đã tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế mạnh mẽ và có thể nói là một mô hình gần giống với các quốc gia phương Tây lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, khi Hồ Quý Lý lên ngôi vào năm 1400, ông thực hiện cải cách với chính sách "hạn điền" nhằm hạn chế sự tích tụ đất đai, điều này lại quay về xu hướng bình quân chủ nghĩa, nơi "xấu đều hơn tốt lỏi".
Bước sang thời Mạc ở Thăng Long (1527 - 1600) và Hậu Lê (1600 - 1789), bối cảnh thế giới có những biến động rất lớn. Sau phát kiến địa lý của Ferdinand Magellan, tàu buôn phương Tây đi qua mũi Hảo Vọng vào Ấn Độ Dương và sang Thái Bình Dương, khiến hoạt động buôn bán quốc tế trở nên sôi động, trong đó có Đại Việt. Bối cảnh kinh tế thế giới đó đã không ngừng tác động vào nước ta, tạo ra những làn sóng thay đổi về tư duy quản trị và phát triển kinh tế.
Trong giai đoạn này, tuy về mặt hình thức ở Đại Việt hình thành cục diện Nam Bắc triều, rồi Đàng Trong Đàng Ngoài, nhưng các chính quyền đều đẩy mạnh phát triển kinh tế, trong đó tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Đây là thời kỳ các thương cảng như Phố Hiến và Hội An phát triển mạnh mẽ, trở thành điểm đến quan trọng của thương nhân quốc tế.
Phố Hiến cổ của tỉnh Hưng Yên. (Ảnh tư liệu: UBND tỉnh Hưng Yên)
Đặc biệt, vào thế kỷ XVI, dưới triều đại Mạc Đăng Dung (Mạc Thái Tổ), ông đã nhìn thấy vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân. Ông chủ trương giải phóng sản xuất, xóa bỏ các quan xưởng, giúp cho thương mại và kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ.
Có thể nói rằng, kinh tế tư nhân phát triển được là nhờ tầm nhìn của những con người làm chính trị có tư duy cải cách, đồng thời cũng được tác động bởi những "luồng gió" từ bên ngoài thổi vào nước ta.
Sang thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, đặc biệt ở miền Nam, nơi có những điền chủ sở hữu hàng trăm mẫu ruộng đất. Tập trung sở hữu đất đai lớn đã tạo ra nền tảng cho nền kinh tế hàng hóa và thương nhân cũng tham gia vào việc buôn bán, lưu thông hàng hóa, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Thử hỏi, chừng ấy ruộng mà chia ra hàng nghìn chủ sử dụng, mỗi người năm ba sào, một mẫu thì làm sao có kinh tế hàng hóa? Làm ra đến kỳ thu hoạch người ta lại đổ bồ, để dành. Còn khi đã có cả trăm công mẫu, thu hoạch với số lượng lớn lúa gạo mà để dành rồi lại bị chuột phá hết thì không được, người ta phải bán ngay. Khi ấy, thương nhân lại hoạt động, lại ngược xuôi.
Như vậy, tập trung sở hữu đất đai lớn ở miền Nam và kinh tế tư nhân phát triển mạnh ở miền Bắc đã góp phần thúc đẩy kinh tế của Đại Việt khởi sắc trong thế kỷ XVII - XVIII.
Tuy nhiên, vấn đề là chúng ta không có một "bà đỡ" cho thiết chế chính trị mới, dẫn đến tình trạng địa chủ phát triển thiếu kiểm soát, trong khi thương nhân tự do "chém giá". Từ đó, những mâu thuẫn trong xã hội xuất hiện và ngày càng bộc lộ rõ nét, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, người dân nghèo rơi vào bế tắc. Hệ quả là các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra dữ dội ở nửa sau thế kỷ XVIII, từ phong trào của Hoàng Công Chất, Lê Duy Mật ở miền Bắc đến cao trào nhất là khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Sông Hội An cuối thế kỷ XVIII. (Ảnh tư liệu: baotanglichsu.vn)
Đây chính là một bài toán về quản lý kinh tế và xã hội. Sau những biến động chính trị kéo dài, Nguyễn Ánh lên ngôi và thành lập triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX, đánh dấu một thành tựu lớn trong lịch sử đất nước. Triều Nguyễn đã xây dựng một mô hình quản lý hành chính mới, thử nghiệm mô hình "tản quyền" theo kiểu Pháp, nhưng khi Minh Mạng lên ngôi, ông nhận thấy mô hình này không hiệu quả và quyết định chia cả nước thành 31 tỉnh để quản lý chặt chẽ hơn.
Với mục tiêu tăng cường quản lý, Minh Mạng đã phục hồi chính sách công điền. Ông tiến hành cải cách điền địa, tịch thu đất tư và trả lại đất công cho Nhà nước. Năm 1830, ông thực hiện các cải cách tại Bình Định - quê hương của Quang Trung - như một phần của chiến lược kiểm soát các vùng đất cũ của phong trào Tây Sơn. Tuy nhiên, khi các cải cách này chưa hoàn tất, vào năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã tấn công Đà Nẵng, và chỉ 7 năm sau, triều Nguyễn chính thức thất bại trước thực dân Pháp, mở đầu cho một giai đoạn khác trong lịch sử đất nước.
Như vậy, lát cắt lịch sử thứ nhất ở thời kỳ quân chủ đóng lại tại đây.
- Trong giai đoạn Pháp thuộc, nền kinh tế Việt Nam có những thay đổi gì đáng chú ý, thưa Giáo sư?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Dưới thời Pháp thuộc, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển. Trong giai đoạn này, xuất hiện một tầng lớp điền chủ lớn, bao gồm cả người Pháp và người Việt. Đặc biệt, một tầng lớp tư sản đã hình thành, với những cái tên tiêu biểu như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô…
Với thiết chế của người Pháp, tư nhân được bảo hộ, kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển và không còn bị những rào cản cũ kìm hãm. Tuy nhiên, một mâu thuẫn mới lại nảy sinh, đó là mâu thuẫn dân tộc.
Thực dân Pháp không thể nào cam lòng để cho người An Nam "giàu lên" một cách bình đẳng, vì vậy họ phân biệt đối xử và chèn ép để kìm hãm phát triển. Trong bối cảnh mất chủ quyền và bị áp chế bởi chính quyền thực dân, một đội ngũ tư sản dân tộc ủng hộ kháng chiến đã hình thành. Có thể nói, mối quan hệ giữa chính quyền cách mạng với giới công thương, giới tư nhân trong suốt thời kỳ kháng chiến là rất tốt đẹp, bởi tất cả đều hướng về một mục tiêu chung là giành lại độc lập dân tộc.
Các doanh nhân tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam, từ trái sang: Trịnh Văn Bô, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà.
Những nhà tư sản, những người làm kinh tế tư nhân khi ấy đã hồ hởi biết bao nhiêu khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành lại được chính quyền. Trong những ngày đầu gian khó khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, chính quyền non trẻ gần như chưa có gì trong tay, quân đội ít ỏi, tài lực thiếu thốn. Quả thực khi ấy, chính sự đóng góp to lớn của giới tư sản yêu nước sau tuần lễ vàng đã giúp chính quyền trụ vững.
Tuy nhiên, vấn đề bắt đầu nảy sinh sau khi Hiệp định Genève năm 1954 được ký kết, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Ở miền Nam, với định hướng kinh tế tự do, kinh tế tư nhân phát triển nhưng lại gặp một vấn đề khác là sự thao túng của Hoa kiều. Các doanh nghiệp lớn với những mặt hàng trọng yếu như thóc gạo, thép… đều có sự cạnh tranh. Chính quyền miền Nam bấy giờ đã phải vật lộn để hạn chế vai trò của giới tư sản Hoa kiều.
Còn miền Bắc, sau khi hoàn toàn giải phóng, đã tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội với mô hình một nền kinh tế chỉ có 2 thành phần là quốc doanh và tập thể, bao gồm cả thương nghiệp. Trong bối cảnh ấy, tâm lý coi thường, ghét thương nhân và thương nghiệp dường như được sống lại. Những cách gọi như "con phe", "con buôn" xuất hiện do sự ác cảm này.
Cùng với đó là tư duy "giáo điều" trong lý luận về phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, cho rằng tư hữu về tư liệu sản xuất từng ngày, từng giờ "đẻ ra" chủ nghĩa tư bản nên phải loại bỏ nó. Chính vì thế mà ở miền Bắc, chúng ta đã thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, bắt đầu hình thức công tư hợp doanh, dần dần xóa bỏ kinh tế tư nhân, đồng thời với quá trình hợp tác hóa nông nghiệp, xóa bỏ kinh tế cá thể ở nông thôn.
Sau này, khi đời sống trở nên khó khăn, kinh tế tư nhân phát triển một cách tự phát và hình thức, chủ yếu là những hoạt động nhỏ lẻ như bán nước chè, mở quán cóc, hay bán hàng rong. Ngoài những hoạt động này, hầu hết các hình thức buôn bán khác đều bị coi là "phe", là vi phạm pháp luật, thậm chí là buôn lậu.
- Và hệ lụy chắc hẳn rất nặng nề?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Những quan niệm có phần ấu trĩ ấy đã dẫn đến một nền kinh tế thiếu năng động, không "hoạt", thiếu lưu thông. Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi thứ đều bị phân bổ theo chỉ tiêu kế hoạch, trong đó thương mại không được khuyến khích, không thể phát triển, thậm chí còn bị kỳ thị.
Tôi kể một vài câu chuyện có thật để chúng ta cùng nhìn nhận.
Tôi có người bác ruột từng là Chủ tịch của một thành phố.
Vào một năm, sau Tết, khoảng tháng 3, tháng 4, ông nhận thấy thành phố bỗng dưng nháo nhác vì thiếu quan tài, phải chạy đôn đáo sang tỉnh khác để mua. Nguyên nhân là trong quá trình xây dựng kế hoạch năm trước đó, người ta đã bỏ sót ô quan tài, dẫn đến tình trạng không ai sản xuất quan tài nữa, chỉ còn lại những chiếc tồn từ năm trước và bán hết trong vài tháng. Kế hoạch hóa đến mức thiếu sót như vậy khiến ta cảm thấy như không ai được phép chết (cười).
Một ví dụ khác là chế độ ăn theo định suất, thể hiện sự quản lý máy móc. Một thanh niên khỏe mạnh có thể ăn tới 17kg gạo/tháng, nhưng khi anh ta tốt nghiệp đại học và trở thành cán bộ, mặc dù vẫn còn trong độ tuổi ăn khỏe và có khả năng tiêu thụ nhiều hơn trước, thì định suất lại giảm xuống chỉ còn 13kg.
Những cách thức cứng nhắc như vậy đã làm mất hết động lực của sản xuất.
Cửa hàng mậu dịch thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. (Ảnh tư liệu: congthuong.vn)
Về nông nghiệp, hợp tác xã lại trở thành một lực cản lớn, thậm chí triệt tiêu động lực lao động của nông dân. Trong lịch sử, động lực chủ yếu của nông dân không phải là cải tiến kỹ thuật mà chính là khát vọng làm giàu từ mảnh ruộng của mình, chăm lo cho ruộng đất "một nắng hai sương" để thu hoạch lúa. Tuy nhiên, trong hợp tác xã, dù làm nhiều hay ít thì nông dân cũng chỉ nhận được chừng ấy điểm, nên không có động lực làm việc tích cực.
Về sau này khi nhận thấy tình hình gay quá, mới sinh ra cơ chế ruộng 5% - cho nông dân giữ lại một phần ruộng để tự lo đời sống. Lại là một câu chuyện buồn cười nữa: Dù trời có hạn thì những ruộng lúa thuộc quỹ 5% ấy vẫn xanh mơn mởn, còn những nơi ruộng chung thì cháy khô vì không ai quan tâm. Người ta nói đùa rằng 90% cuộc sống của nông dân sống nhờ vào 5% ruộng đất ấy.
Rõ ràng, vấn đề ở đây là động lực. Không phải điều gì to tát, chỉ là động lực sản xuất rất tự nhiên của người nông dân, khi họ thực sự quan tâm tới công việc của mình.
Nhìn chung, chúng ta đã trải qua một thời kỳ khá dài như vậy cho đến khi giải phóng miền Nam, gần như chưa có gì thay đổi về mô hình kinh tế. Mô hình kinh tế tập thể vốn không thành công ở miền Bắc ấy lại được áp dụng gần như nguyên xi ở miền Nam. Chúng ta tiến hành chiến dịch đánh triệt tiêu tư sản mại bản, tịch thu tài sản, với mục đích cải tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa, tiến tới nền kinh tế XHCN với chỉ hai thành phần quốc doanh và tập thể… Mặc dù chiến dịch này có mục đích chính trị là nhằm hạ uy thế, loại bỏ sức mạnh tài chính của những thành phần chống đối, nhưng nếu nhìn nhận lại một cách khách quan và tỉnh táo hơn thì việc làm này đã ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến sự ổn định và phát triển kinh tế của Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung thời kỳ hậu chiến. Những khó khăn dẫn tới khủng hoảng kinh tế vào cuối thập niên 70 và nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ trước một phần quan trọng có nguồn gốc từ những sai lầm kinh tế xuất phát từ tư tưởng nôn nóng, duy ý chí và giáo điều đó.
Khủng hoảng kinh tế càng trầm trọng hơn khi chúng ta gặp phải những bất lợi về chính trị như bị cấm vận, chiến tranh biên giới Tây Nam và vấn đề Campuchia từ 1979. Khi đó, tình trạng siêu lạm phát lên tới hơn 700% mỗi năm. Giai đoạn này, chúng ta phải đổi tiền liên tục, đến mức mệnh giá quá lớn, lương tháng chỉ đủ để đổi lấy một tờ tiền. Tình trạng này rất quẩn, khiến nền kinh tế cảm tưởng như sắp không thể trụ vững.
Chúng ta có thể nhìn sang một quốc gia rộng lớn như Liên Xô, nơi cũng áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, với nền công nghiệp hùng cường là thế nhưng chỉ cần người dân Việt Nam sang mua bàn là thôi là không còn một cái bàn là nào trong mậu dịch. Trong khi đó ở các nước khác, về mặt nguyên tắc thì khách càng mua, họ càng phải làm chứ, đó là quy luật cung - cầu rồi. Với một nền kinh tế như thế thì khó có thể trụ được, chứ chưa nói đến phát triển.
Và thời kỳ Đổi mới như hừng đông bắt đầu hé sáng. Đó là đóng góp vĩ đại của Đại hội VI năm 1986. Chúng ta đã nhận ra rằng, dù là mô hình nào thì nền kinh tế là phải làm ra sản phẩm, có thị trường để tiêu thụ và ngày càng nâng cao chất lượng của các sản phẩm. Muốn vậy thì không thể trông chờ vào mô hình kế hoạch hóa tập trung, phân phối theo phương thức quan liêu bao cấp.
Từ đó, tư duy về kinh tế bắt đầu thay đổi. Lần đầu tiên, ta chính thức thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có khu vực tư nhân vốn trước đó gần như bị loại ra khỏi khung kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đổi mới với sự thừa nhận kinh tế tư nhân trong 5 thành phần kinh tế thực chất là một cuộc cách mạng trong nhận thức.
Lúc đó, tôi cũng tham gia vào nhiều cuộc thảo luận, mới kể lại chuyện đã qua. Chúng ta đã từng không thể chấp nhận được kinh tế tư nhân là bởi thành phần này thường gắn với 2 chữ "bóc lột", mà trong điều lệ Đảng thì đảng viên không được bóc lột ai cả. Từ đó mới nảy sinh một kiểu lập luận cho rằng, ai bóc lột thì cứ để cho bóc lột, nhưng phải khoanh vùng nhóm này lại. Còn đảng viên thì dứt khoát không được bóc lột, tức là không được làm kinh tế tư nhân.
Do đó, bước chuyển vĩ đại thực sự chính là ở chỗ này, rằng bất kể thành phần kinh tế nào, nếu tạo ra của cải cho xã hội thì cũng đều cần được trân trọng. Rồi chúng ta cũng từng bước nhìn ra tính bình đẳng giữa các thành phần kinh tế - tất nhiên đó là một sự bình đẳng đặt trong ngoặc kép vì để bình đẳng thực sự, cần thêm nhiều thời gian.
Khi khu vực kinh tế tư nhân được chính thức thừa nhận, những vấn đề khác lại phát sinh. Mặc dù đã được thừa nhận hợp pháp, nhưng môi trường hoạt động của kinh tế tư nhân vẫn gặp nhiều bất cập. Từ vay vốn, tiếp cận đất đai, cho đến các thủ tục hành chính, nhiều yếu tố vẫn chưa được ưu tiên, thậm chí còn bị chèn ép, khiến kinh tế tư nhân chỉ tồn tại trong cảnh vất vưởng và phải "bôi trơn" để có thể sống sót. Điều này cũng chính là mầm mống của tham nhũng.
Chúng ta đã từng ước ao có những tập đoàn kinh tế lớn như các Chaebol ở Hàn Quốc với Samsung, Daewoo, Hyundai… bởi rõ ràng, nếu không có những tập đoàn này, Hàn Quốc khó có thể thành công trên trường quốc tế. Tuy nhiên, khi chúng ta thử vận dụng mô hình này trong việc xây dựng các tập đoàn vào những năm 1990 - 1991, ta lại nghĩ đến việc xây dựng các tập đoàn quốc doanh. Những lĩnh vực "ngon ăn" nhất như dầu khí, than đá, đóng tàu… đã được đưa vào tay các tập đoàn nhà nước. Hậu quả là nạn tham nhũng trở nên trầm trọng, khi tiền nhiều mà quản lý thiếu minh bạch. Mô hình này kéo dài suốt nhiều năm mà không có sự thay đổi căn bản.
Để thay đổi nhận thức không phải câu chuyện một sớm một chiều, đó là cả một quá trình. Dần dần, chúng ta cũng nhận ra, tính dân tộc là quan trọng nhất, không có một chủ nghĩa nào cao hơn lợi ích của dân tộc. Bác Hồ đã chỉ ra rồi, lợi ích quốc gia - dân tộc phải luôn được đặt lên trên hết, trước hết.
Khi chúng ta nhận thức rõ hơn về vai trò của kinh tế tư nhân, nền kinh tế mới thực sự "hoạt" lên. Quan trọng là phải làm sao để tạo ra được những "quả đấm thép" từ các tập đoàn kinh tế tư nhân, đồng thời thổi vào trong họ ý thức của dân tộc này, rằng sự lớn mạnh về kinh tế ở đây không chỉ là cho doanh nghiệp, doanh nhân và gia đình của họ, mà là cho cả dân tộc. Hàn Quốc, Nhật Bản đã làm được, tại sao Việt Nam ta lại không?
- Qua những giai đoạn lịch sử đó, chúng ta có thể thấy rằng mỗi giai đoạn đều có sứ mệnh riêng, góp phần đưa nhận thức về kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, tiến đến ngày hôm nay. Trong đó, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia luôn có một vai trò tối quan trọng. Giáo sư nghĩ sao?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Nếu như có một nhà lãnh đạo đất nước thành công, tôi tin chắc chắn rằng họ luôn luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu. Ngược lại, khi lợi ích cá nhân được đặt trên lợi ích dân tộc, kết cục đã được lịch sử chứng minh rất rõ: An Dương Vương mất nước vì đặt lợi ích gia đình lên trước; Hồ Quý Ly mất nước vì ưu tiên lợi ích quân đội lên hàng đầu; và nhà Nguyễn cũng thất bại vì chỉ lo cho lợi ích của dòng họ mình. Không thể có kết cục nào khác được!
Những thời kỳ trong lịch sử ghi dấu những chiến công chói lọi nhất đều là khi lợi ích dân tộc được đặt lên trước hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng chói về một vị lãnh tụ thiên tài đã đặt lợi ích dân tộc lên trên tất cả. Và chính bởi tấm lòng đó, mà cả những nhà tư sản, thậm chí có những người đang sống sung túc ở nước ngoài đã quay về góp sức với kháng chiến, với công cuộc dựng nước.
Đất nước này, không có chủ nghĩa nào, không một học thuyết nào mạnh mẽ và có sức thuyết phục hơn lợi ích dân tộc. Trong cuộc sống, mỗi người có thể theo khuynh hướng khác nhau, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta không cần quá lo lắng về điều đó, vì đó là lẽ sống hiển nhiên. Dù theo quan điểm nào, quan trọng là chúng ta phải nhớ rằng dân tộc chỉ có một - "chỉ một mẹ thôi". Chỉ khi giương cao ngọn cờ dân tộc, chúng ta mới có thể tập hợp được sức mạnh của toàn dân, bao gồm cả những người Việt Nam ở nước ngoài. Ý thức dân tộc là giá trị thiêng liêng và là cội nguồn sức mạnh của người Việt.
Cũng chính vì thế, trong thời đại ngày nay, khi bàn về kinh tế tư nhân, chúng ta cũng phải khơi dậy được trong doanh nhân, doanh nghiệp tinh thần tư bản dân tộc. Khi gắn với lợi ích quốc gia, với tinh thần dân tộc, thì họ một cách tự nhiên nhất sẽ hết lòng vì đất nước này. Khi đã có ý thức đó, họ không còn chỉ là người đi làm giàu cho bản thân, mà là người góp sức dựng nên sức mạnh quốc gia; họ cũng không tham ô, không phá hoại, vì đồng tiền đi liền khúc ruột, không ai tham ô trong chính "ngôi nhà" của mình.
Vì vậy, trở lại điểm cốt lõi là lợi ích quốc gia dân tộc phải là số một. Đó sẽ chính là động lực to lớn giúp cho khu vực kinh tế tư nhân có thể lớn nhanh, lớn mạnh hơn bao giờ hết và đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
- Ông đã nhắc đến những "con rồng châu Á" như Singapore, Hàn Quốc và Nhật Bản, rằng họ làm được vậy tại sao chúng ta chưa thể? Nhưng theo Giáo sư, Việt Nam chúng ta có gì trong tay để hiện thực hóa khát vọng đó?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Bao giờ cũng vậy, mọi sự phát triển của một dân tộc theo hướng đổi thay mạnh mẽ đều cần có yếu tố bên trong và bên ngoài.
Yếu tố bên trong là phải có một nhà cải cách thực sự với tầm nhìn vượt thời gian, bao quát được những vấn đề toàn cầu. Và tôi tin rằng Tổng Bí thư Tô Lâm đang thể hiện được tầm nhìn đó, khi ông nhìn ra vai trò quan trọng nhất của kinh tế tư nhân và đề cao lợi ích dân tộc như một ngọn cờ dẫn đường. Nhà cải cách đã xuất hiện rồi đây.
Về yếu tố bên ngoài, lịch sử cho thấy một quốc gia có thể vượt lên và phát triển nhanh chóng thường biết tận dụng, tranh thủ các cơ hội xuất hiện từ những đổi thay, biến chuyển của tình hình thế giới.
Hàn Quốc là một ví dụ điển hình. Thời kỳ Tổng thống Park Chung Hee, họ đã khéo léo tận dụng mâu thuẫn giữa hai phe trong Chiến tranh Lạnh để "rút tiền" của các bên, đồng thời tranh thủ sự hậu thuẫn về kỹ thuật, công nghệ. Vào những năm 1960, khi chính phủ Hàn Quốc xây dựng Tập đoàn POSCO - biểu tượng công nghiệp hóa của Hàn Quốc, họ đã tranh thủ và tận dụng hàng trăm triệu USD từ số tiền bồi thường chiến tranh của Nhật Bản, cộng với việc đưa quân sang chiến trường Việt Nam đánh thuê cho Mỹ.
Khi thế giới "im ru" thì chúng ta khó có thể tranh thủ được gì. Còn hiện nay, tình hình thế giới dù đang có nhiều biến động, tôi cho rằng chính những thời điểm như thế này, cơ hội lại mở ra và Việt Nam đang có những điều kiện thuận lợi. Không phải tự nhiên mà hơn 50 doanh nghiệp hàng đầu của Mỹ đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư. Điều đó cho thấy rằng dường như đất nước chúng ta bắt đầu "bẻ ghi" rồi đây.



Rạo rực trước vận hội mới của đất nước. (Ảnh minh họa)
Trong khi đó, để có thể tranh thủ cơ hội hiện nay, Việt Nam có gì? Xin nhắc lại 2 điều mà cố Thủ tướng Lý Quang Diệu đã nói từ lâu.
Thứ nhất, vị trí địa chính trị, mặt tiền "chiến lược" của Việt Nam chính là một tài nguyên vô giá, một cơ hội lớn.
Trên thực tế, trong suốt một thời gian dài, người Việt Nam chưa coi cơ hội là một loại tài nguyên. Giống như việc khi trời mưa nhiều, trong khi người Nhật Bản đã biết xây hầm ngầm để chứa nước sử dụng quanh năm thì Việt Nam mình không ai làm hoặc chỉ làm bể hứng tạm thời. Học theo người Nhật, đến giờ Trường Sa của ta không thiếu nước ngọt để sử dụng.
Hay trước đây, người ta cũng chưa biết tận dụng mặt tiền của ngôi nhà để bày bán hàng hóa, thậm chí cho thuê mặt bằng để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, mà thay vào đó lại chỉ đóng cửa rồi trồng rau muống sau nhà để bó đi bán.
Câu chuyện về quyền điều hành Vùng thông báo bay Hồ Chí Minh (FIR Hồ Chí Minh) cũng là một ví dụ thực tế. Trong những năm 1970, dù Việt Nam có vị trí cực kỳ quan trọng về hàng không, Thái Lan lại nhận thấy tầm quan trọng của FIR Hồ Chí Minh và nhanh chóng chiếm lấy quyền điều hành vùng trời trên Biển Đông. Mãi đến năm 1994, Việt Nam mới giành lại quyền điều hành.
Như vậy, Việt Nam có một vị trí cực kỳ chiến lược, nhưng chúng ta đã chưa nhận thức hết tầm quan trọng của vị trí đó để tận dụng triệt để "tài nguyên" sẵn có này. Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam là 1 trong 10 nước có vị trí địa - chiến lược tốt nhất thế giới. Điều cần thiết bây giờ là biến lợi thế đó thành hiện thực.
Thứ hai là yếu tố con người. Người Việt Nam có phẩm chất rất đặc biệt: Khả năng ứng biến linh hoạt và sự mềm dẻo trong ứng xử với mọi hoàn cảnh. Đây là yếu tố mà không phải quốc gia nào cũng có được. Chúng ta vẫn quan tâm nhiều đến đầu tư cho kỹ thuật và công nghệ, điều này rất đúng. Tuy nhiên, kỹ thuật có thể mua được nếu có nguồn lực tài chính; còn những phẩm chất của con người Việt Nam, những đặc điểm văn hóa, lại không thể nhập khẩu. Nếu biết cách khai thác và phát huy, chúng ta sẽ có lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ.
Nhìn sang Hàn Quốc, họ đã nghiên cứu và nhận thấy người Hàn có những điểm mạnh nhưng cũng có điểm yếu, như sự nóng tính. Dựa trên đó, họ đã xây dựng triết lý kinh doanh tập trung vào đầu tư mạo hiểm, đặc biệt trong những thời kỳ biến động. Triết lý này đã giúp các doanh nghiệp Hàn Quốc thành công khi đầu tư vào Việt Nam và nhiều quốc gia khác.
Với người Việt Nam, lợi thế về sự linh hoạt rất phù hợp để phát triển trong các lĩnh vực như kỹ thuật số, công nghệ phần mềm, công nghệ tương lai, làm chip... (Ảnh: FPT Semiconductor)
Còn với người Việt Nam, lợi thế về sự linh hoạt rất phù hợp để phát triển trong các lĩnh vực như kỹ thuật số, công nghệ phần mềm, công nghệ tương lai, làm chip... Vì thế, chúng ta hãy biết chăm lo và đầu tư có chiến lược cho những lĩnh vực ấy.
Trước đây, tôi đã từng tham gia tư vấn cho doanh nhân Trương Gia Bình và Tập đoàn FPT khi họ "tiến quân" sang thị trường Nhật Bản. Dù thời điểm ban đầu không hề dễ dàng, nhưng về sau FPT đã thành công "đánh dạt" thị trường này. Vì sao lại thành công? Một trong những nguyên nhân là bởi người Nhật Bản rất "nguyên tắc", họ thường đòi hỏi quy trình kỹ thuật vô cùng chặt chẽ. Với tính cách như vậy, người Nhật làm phần cứng rất giỏi nhưng làm phần mềm lại hạn chế.
Thêm nữa, người Việt Nam cũng thường rất khéo léo, đây là tố chất khó tìm thấy ở người dân các quốc gia Đông Nam Á khác. Đó chính là đặc trưng văn hóa, con người. Và suy cho cùng, chúng ta hãy biến tất cả những gì người Việt Nam có trở thành lợi thế cạnh tranh quốc tế.
- Chắc chắn rồi, Việt Nam cần tìm cách để phát huy mạnh mẽ những lợi thế đó. Vậy ngược lại, người Việt có những điểm yếu nào cần được cải thiện để phục vụ cho sự phát triển lâu dài của kinh tế - xã hội đất nước, thưa Giáo sư?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Để trả lời câu hỏi này, tôi muốn bắt đầu bằng một câu hỏi: Bạn có biết tại sao trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc có nhân vật Thời Thiên, vốn là một tên chuyên ăn cắp, vốn là thói xấu trong xã hội, nhưng vẫn được coi là anh hùng không?
Ví von như vậy, nhưng ý tôi cho rằng chúng ta hãy thay đổi cách tư duy theo hướng điểm mạnh - điểm yếu đi. Thay vì nhìn từ góc độ là người Việt Nam có mặt này tốt mặt kia dở, rồi chỉ đem lợi thế có sẵn ra dùng, chúng ta hãy suy nghĩ và tìm cách tận dụng, biến tất cả những gì mình có, bao gồm cả sở trường và sở đoản trở thành lợi thế để phục vụ phát triển. Người nhỏ làm việc nhỏ, người lớn làm việc lớn. Quan trọng là phải biết cách sử dụng đúng chỗ, đúng lúc!
- Như ông đã phân tích qua rất nhiều lát cắt của nền kinh tế Việt Nam, quan niệm trước đây về kinh tế tư nhân, doanh nhân và doanh nghiệp quá nặng nề. Vậy trong bối cảnh hiện tại, việc thay đổi quan niệm và hành động về kinh tế tư nhân có thuận lợi không, đặc biệt là từ góc độ những người thực thi chính sách?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Nhớ lại trước đây, thời điểm mà kinh tế tư nhân vẫn bị nhìn nhận với con mắt khắt khe, Đảng viên không được khuyến khích tham gia làm kinh tế, vấn đề về "bóc lột" cũng đã từng được tranh luận sôi nổi. Tôi cho rằng, dù chỉ một đồng, việc bóc lột vẫn là xấu, nhưng nếu làm ra nhiều tiền mà lợi ích được hài hòa thì đó là điều tích cực, có lợi cho xã hội.
Giờ đây, mọi thứ đã cởi mở hơn. Kinh tế tư nhân đã được công nhận là động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề là chúng ta cần thực hiện tốt những chính sách để doanh nghiệp tư nhân phát triển, qua đó giúp họ nhận thức được trách nhiệm của mình đối với quốc gia và xã hội. Đó chính là vai trò của những người lãnh đạo các cơ quan trong hệ thống chính trị, người cần truyền cảm hứng và hướng dẫn các doanh nghiệp.
- Nhìn vào hành trình phát triển, lớn lên của các tập đoàn kinh tế tư nhân hàng đầu Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, ông thấy những bước chuyển mình và thay đổi mang trong mình tinh thần dân tộc của họ như thế nào?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Tôi nhận thấy rõ điều đó ở các doanh nhân, doanh nghiệp mà tôi từng có cơ hội tiếp xúc.
Như với doanh nhân Phạm Nhật Vượng và Tập đoàn Vingroup, họ thực sự mang trong mình tinh thần dân tộc và muốn khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, chứ đó không phải là con người chỉ chú trọng làm giàu cho cá nhân, cho gia đình. Hay một số doanh nhân khác mà tôi được biết như doanh nhân Vũ Văn Tiền, Chủ tịch Tập đoàn Geleximco, Anh hùng lao động Thái Hương, Chủ tịch Hội đồng Chiến lược Tập đoàn TH… Họ là những doanh nhân đã vươn lên thành công trong những hoàn cảnh đầy thử thách, nhưng luôn đau đáu một ước nguyện góp phần đưa đất nước tới hùng cường.
Bởi như tôi đã phân tích, hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của Việt Nam đã tạo ra một số nét đặc trưng trong văn hóa, mà văn hóa không phải cái gì cũng hay, một trong số đó là thói đố kỵ. Thời nay, giới trẻ và cư dân mạng thường gọi là "gato" (viết tắt của cụm từ "ghen ăn tức ở") và có câu: "Giàu thì nó ghét, nghèo thì nó khinh, thông minh thì nó đố kỵ" đấy.
Ghen ăn tức ở chính là "kẻ thù" cực kỳ lớn cho sự phát triển của xã hội Việt Nam. Không thể nào cứ mãi dàn hàng ngang mà tiến được. Giới trí thức vẫn thường nói đùa về câu chuyện thằng bờm vác tre để đi vào cổng nhưng vác ngang để diễu vấn đề này.
Còn nữa, chúng ta vẫn ca ngợi tinh thần đoàn kết, hoàn toàn chính xác, đoàn kết là cội nguồn sức mạnh. Tuy nhiên, tôi cho rằng trong lịch sử, phần lớn thời gian chúng ta mới chỉ dừng lại ở sự "cố kết" - chúng ta buộc phải co cụm lại trước những thử thách hiểm nghèo. Và khi những nguy cơ đe dọa từ bên ngoài giảm bớt đi, thì sự cố kết ấy lại trở nên rời rạc. Thử nhìn xem, cứ hết ngoại xâm một thời gian là lại có nội chiến. Trong khi đó, đoàn kết là phải có tổ chức, có sự tự giác.
Do đó, khi hướng tới phát triển kinh tế tư nhân, những người làm chính sách cần nhận thức được những yếu tố thuộc về văn hóa đó, để có giải pháp hóa giải và tận dụng được tất cả những gì chúng ta có. Nếu cứ để doanh nghiệp "mở mắt ra" là những "chồng gato" to tướng trước mặt thì không thể nào phát triển được. Tôi cứ thấy doanh nghiệp nào phát triển lên là vừa mừng vừa lo, lo không biết rồi họ có sảy chân ở chỗ nào không đây.
Bởi thế, chúng ta đang rất cần những người lãnh đạo có tầm nhìn.



- Có một thực tế rằng đến nay ở Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến gần 98% trong tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế. Điều ông vừa nói liệu có phải là lý do từ góc độ văn hóa lịch sử mà đến nay, Việt Nam vẫn có rất ít doanh nghiệp lớn?
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Tôi cho rằng đó là một trong những lý do. Trước hết, nguyên nhân khiến kinh tế tư nhân ở ta chưa hình thành được nhiều doanh nghiệp lớn là bởi người ta không dám làm lớn, không có gan làm lớn vì làm lớn thấy phiêu lưu quá, thiếu những sự hậu thuẫn từ thể chế, chính sách và xã hội cho việc làm lớn.
Thứ hai, điều kiện cho việc làm ăn kinh doanh quy mô lớn cũng không hề dễ dàng. Bởi ở ta, khi một doanh nghiệp vươn lên trở thành một thực thể lớn, lập tức gặp đủ thứ "giông bão", nghi kỵ từ nhiều phía. Chính vì vậy, tư duy phổ biến là "thôi cứ làm nhỏ, cho an toàn".
Muốn thay đổi cục diện này và phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân. Nhà nước cần tiếp tục tạo môi trường, tạo điều kiện và có chính sách nâng đỡ để những doanh nghiệp tư nhân có năng lực vươn lên quy mô lớn.
Còn nếu doanh nghiệp cứ mãi "buôn thúng bán mẹt" thì sẽ chẳng đi đến đâu. Một trong những điểm then chốt tạo nên thành công của Park Chung Hee ở Hàn Quốc chính là ông đã nhận ra vai trò của các tập đoàn lớn (chaebol) và xây dựng chiến lược bài bản để hỗ trợ họ phát triển, từ đó thúc đẩy cả nền kinh tế đi lên.
- Từ tất cả những nội dung đã trao đổi, có nghĩa rằng chúng ta không chỉ cần hiểu và nhìn nhận khách quan về vai trò của kinh tế tư nhân, mà còn phải chạm đến một tinh thần mạnh mẽ hơn về ý thức dân tộc, về khát vọng phát triển và khơi dậy một niềm tin rằng người Việt Nam hoàn toàn có thể làm được…
GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang: Đúng vậy! Chúng ta không thể để cho nền kinh tế nói riêng và rộng hơn là đất nước này nói chung mãi "còi cọc".
Người Việt Nam ngày nay đã có trình độ, có năng lực. Giờ đây, chúng ta phải mạnh dạn trao quyền và giao việc cho các doanh nghiệp. Việc gì phải nhờ vả ai? Tôi tin rằng, chỉ cần giao nhiệm vụ cho họ là họ sẽ làm được ngay. Còn nếu công việc quá khó, hãy đi thuê. Chúng ta có ý tưởng, khát vọng, và nguồn lực; cả thế giới này sẵn sàng làm thuê cho chúng ta, đó là một tư duy cực kỳ hiện đại.
Nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta phải biết nghĩ cho đất nước mình, cho dân tộc mình, nghĩ đến tương lai của thế hệ sau. Đừng chỉ nghĩ đến lợi ích của gia đình mình, con cái mình. Người Việt Nam ta có một điều đặc biệt, đó là ý thức dân tộc rất cao.
Những yếu tố đó, khi hội tụ tại khu vực kinh tế tư nhân, sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ. Doanh nghiệp tư nhân không chỉ có động lực tự thân mà còn có dòng chảy âm ỷ của tinh thần dân tộc trong huyết quản.
Đó cũng chính là lý do tại sao tôi nói rằng, những chủ trương, chính sách mới về phát triển kinh tế tư nhân của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm gửi gắm và phản ánh kỳ vọng của cả dân tộc này. Kinh tế tư nhân đã được tạo điều kiện, đã dần được "cởi trói". Và khi đã khơi dậy được ý thức dân tộc thì người Việt Nam không chịu thua ai cả.
Sự vươn mình, sự trỗi dậy được bắt đầu từ khát vọng lớn lao. Khát vọng này đã được Đại hội XIII nêu rõ: "Phải khơi dậy khát vọng phát triển đất nước". Và để phát triển, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Phải bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu".
- Thưa Giáo sư, trong phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã truyền đi thông điệp về khát vọng của dân tộc: "Hãy cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới - Khát vọng - Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu vào năm 2045". Tổng Bí thư khẳng định, để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hùng cường, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tiếp tục đồng lòng, chung sức, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Vì "biết đồng sức, biết đồng lòng/ việc gì khó, làm cũng xong".
Cuộc trò chuyện ngày hôm nay với Giáo sư không chỉ mở ra một bức tranh rõ ràng về hành trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam, mà còn giúp chúng ta nhìn nhận lại những yếu tố sâu sắc trong lịch sử, văn hóa và chính sách phát triển của đất nước. Với sự hiểu biết sâu rộng và những phân tích sắc bén, Giáo sư đã khơi gợi trong chúng ta những góc nhìn mới mẻ và đáng suy ngẫm về vai trò của kinh tế tư nhân, về khát vọng vươn mình của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Trân trọng cảm ơn GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang đã dành thời gian quý báu để chia sẻ những suy nghĩ sâu sắc và tầm nhìn chiến lược với chúng tôi!
Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.
Năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.
Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.
Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đã và đang có thể tiếp tục nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.
Trân trọng giới thiệu tới độc giả!