Cần kế hoạch hành động mới mẻ, quyết liệt với khát vọng Việt Nam trở thành cường quốc du lịch thế giới

Cần kế hoạch hành động mới mẻ, quyết liệt với khát vọng Việt Nam trở thành cường quốc du lịch thế giới

Thứ Sáu, 27/01/2023 - 06:09

Đầu năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch quốc gia đến năm 2030 với các mục tiêu đầy tham vọng: Du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển bền vững; Việt Nam nằm trong top 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới; tổng thu từ khách du lịch đạt 130 - 135 tỷ USD, đóng góp trực tiếp vào GDP đạt 15 - 17%; tạo ra khoảng 8,5 triệu việc làm; đón được ít nhất 50 triệu khách quốc tế và 160 triệu khách nội địa.

Chiến lược mới được đưa ra sau một năm ngành du lịch thiết lập đỉnh cao mới. Năm 2019, Việt Nam là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới, khách du lịch quốc tế đạt trên 18 triệu lượt người, nội địa 85 triệu lượt người. Tổng thu của ngành du lịch đạt 755 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 10% GDP, trong đó, nguồn thu từ khách quốc tế chiếm đến 65% tổng nguồn thu. Năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam được cải thiện đáng kể khi vượt qua Indonesia để xếp hạng thứ 4 trong ASEAN về lượng khách quốc tế.

Tuy nhiên, ngay sau khi ban hành kế hoạch mới, ngành du lịch đã buộc phải "đóng cửa" với du khách quốc tế do tác động của đại dịch Covid-19. Sau hai năm đại dịch, ngày 15/3/2022, Việt Nam mở cửa trở lại hoạt động trong điều kiện bình thường mới. Là một trong những quốc gia đi đầu về mở cửa lại hoạt động du lịch, Việt Nam đặt ra mục tiêu phục vụ 65 triệu lượt khách du lịch, trong đó có 5 triệu lượt khách du lịch quốc tế có hộ chiếu vắc xin; tổng thu từ du lịch dự kiến đạt khoảng 400 nghìn tỷ đồng với kỳ vọng du lịch sẽ bùng nổ trở lại.

Mặc dù là nước đi đầu mở cửa trở lại sau đại dịch nhưng chúng ta đã không tận dụng được lợi thế. Trong khi Thái Lan, Indonesia và Singapore đều đạt và vượt mục tiêu về khách du lịch quốc tế, Việt Nam đã không đạt được kỳ vọng khi chỉ đón được khoảng 3,5 triệu lượt khách quốc tế, kém xa chỉ tiêu thu hút 5 triệu khách đặt ra.

Doanh thu du lịch chỉ khoảng 4,5 tỷ USD và nếu GDP năm nay tăng trưởng 8%, đạt khoảng 400 tỷ USD, thì đóng góp của du lịch chỉ chiếm trên 1% GDP, tức là còn rất xa so với mốc 10% GDP của năm 2019. Thật may là chỉ tiêu khách nội địa đã vượt dự báo, đạt trên 100 triệu lượt khách.

Thái Lan, dù mở cửa sau, đã đạt mốc mục tiêu 10 triệu lượt khách du lịch quốc tế đặt ra cho cả năm 2022 ngay từ đầu tháng 12, mang lại tổng thu 14 tỷ USD. Xét về chỉ số phục hồi du lịch châu Á hậu Covid-19, Việt Nam đang đứng cuối bảng xếp hạng khu vực.

Nhìn vào các mục tiêu của Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 và kết quả đạt được năm 2022, có quan điểm cho rằng nên điều chỉnh các mục tiêu chiến lược để có tính khả thi. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả của du lịch nội địa bùng nổ và các ưu thế của du lịch Việt Nam, mặc dù các mục tiêu của chiến lược trở nên tham vọng hơn do điểm xuất phát bị kéo lùi lại, nhưng triển vọng để đạt được các mục tiêu chiến lược là khả thi. Tất cả những việc cần làm chỉ là kế hoạch hành động cập nhật trên cơ sở đánh giá những thay đổi trong nhu cầu của khách do các yếu tố địa chính trị, chiến tranh Nga - Ukraine, lạm phát… làm giảm thu nhập, khả năng chi trả và tâm lý du khách, đặc biệt là các rào cản nội tại của Việt Nam.

Thị thực (visa) đang là rào cản hiện hữu mà các chuyên gia du lịch, các nhà kinh tế đều có cùng quan điểm cần cải thiện ngay. Chúng ta đang miễn thị thực cho một số nước hạn chế. Tại thời điểm mở cửa với du khách quốc tế, Việt Nam vẫn chỉ miễn thị thực cho 24 quốc gia với thời hạn thị thực chỉ 15 ngày thay vì 30 ngày như trước đây và chính sách này gần như không có sự thay đổi trong suốt thời gian qua.

Việt Nam có nền kinh tế mở hàng đầu thế giới với 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), có tổng giá trị xuất nhập khẩu gấp đôi GDP và xuất khẩu đang mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế đất nước. Vậy tại sao chúng ta lại chỉ "hé" mà không phải mở rộng cánh cửa cho du khách quốc tế, nhóm đóng góp 65% nguồn thu từ tổng thu từ du khách để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và mang lại nguồn lực tổng thể cho quốc gia?

Kinh nghiệm khu vực và thế giới cho chúng ta một bức tranh hoàn toàn khác về độ mở quốc gia. Các nước trong ASEAN, cạnh tranh trực tiếp với chúng đều có chính sách thị thực thông thoáng hơn. Ví dụ, Thái Lan đang miễn thị thực cho 65 quốc gia với thời hạn thị thực từ 30 - 45 - 90 ngày. Thái Lan mới ban hành chính sách thu hút người giàu và "dân du mục kỹ thuật số" với thời hạn thị thực 5 - 10 năm. Các nước Liên minh châu Âu cấp thị thực Schengen theo nhu cầu du lịch của khách, thường là 90 ngày và cho phép ra vào nhiều lần. Trừ Anh, các nước châu Âu khác đều miễn visa nếu du khách đã có thị thực Schengen. Hoa Kỳ cấp thị thực một năm và có cơ chế gia hạn từng năm. Peru cấp thị thực một năm, Argentina và Brazil cấp thị thực 90 ngày. Riêng Canada cấp thị thực lên đến 10 năm tùy vào thời hạn hộ chiếu của du khách. Hầu hết các nước Trung Mỹ, Mỹ La tinh và Caribe miễn thị thực nếu du khách có thị thực vào Hoa Kỳ.

Việt Nam rất cần một kế hoạch hành động quyết liệt để đẩy mạnh thu hút du khách quốc tế, bao gồm các việc sau:

Thứ nhất là cần thay đổi tư duy làm du lịch. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp cần sự vào cuộc của cả lĩnh vực công và tư, cả Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Thiếu hoặc yếu của một trong các mắt xích này, các mục tiêu chiến lược sẽ không đạt được. Ví dụ, du lịch là sự chào đón, là nụ cười, cởi mở và ân cần. Nhưng từ khâu xin thị thực đã khó khăn về thủ tục, chi phí cao; các hãng hàng không chưa thực sự gây dấu ấn ngay khi du khách lên máy bay (Air France đưa ballet lên chuyến bay để chào đón du khách), cửa khẩu còn quá khiêm tốn cả về hình ảnh trang trí lẫn thiếu vắng nụ cười của người làm công tác xuất nhập cảnh, điều mà hầu hết các nước coi du lịch là ngành kinh tế quan trọng thường làm và là thông điệp đầu tiên để thu hút du lịch quốc tế. Mỗi người dân và doanh nghiệp là đại sứ du lịch.

Vấn đề này liên quan đến nhiều thứ, trong đó có tiếp thị về du lịch. Tiếp thị về du lịch phải đi đôi với sự sẵn sàng của các dịch vụ có chất lượng. Đơn giản là không thể chấp nhận được chuyện chúng ta truyền thông và tổ chức hội chợ du lịch khắp thế giới, chi nhiều tiền cho quảng cáo và kêu gọi du khách đến Việt Nam nhưng lại bắt họ phải đối mặt với những khó khăn về thị thực, sân bay, taxi, phòng khách sạn, sự không an toàn hay thái độ của công chức, viên chức đại diện chào đón du khách, vứt rác bừa bãi, trộm cắp đường phố…

Thứ hai, cần một cơ quan đủ mạnh để điều phối ngành du lịch. Nhiều quốc gia có Bộ Du lịch. Chúng ta có Tổng cục Du lịch (sắp tới sắp xếp thành Cục Du lịch) thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nhưng du lịch là ngành kinh tế tổng hợp. Một dự án du lịch có thể dùng đến 2.500 sản phẩm và dịch vụ, và có sức lan tỏa đến 40 ngành nghề khác trong nền kinh tế. Du lịch liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước, nhiều ngành, lĩnh vực nên rất cần trao nhiều thẩm quyền hơn cho Tổng cục Du lịch hoặc cần một cơ quan cấp cao hơn, có thẩm quyền lớn hơn để điều phối tổng thể ngành du lịch.

Thứ ba, cần có sự phân công rõ trách nhiệm công, tư trong thực hiện chiến lược du lịch. Làm rõ việc gì Nhà nước làm, việc gì tư nhân làm để tối ưu hóa nguồn lực quốc gia.

Thứ tư là thông thoáng về thị thực. Về lâu dài cần miễn thị thực cho hầu hết các quốc gia. Trước mắt, cần mở rộng diện miễn thị thực cho các nước thuộc thị trường trọng điểm và áp dụng e-visa (thị thực điện tử), on-arrival visa (thị thực tại cửa khẩu) cho các nước còn lại. Xem xét cho phép nhập cảnh với mục đích du lịch nếu du khách đã được phép nhập cảnh vào các nước thuộc diện miễn thị thực vào Việt Nam. Xem xét cơ chế phối hợp trong nội khối ASEAN trên cơ sở trụ cột hợp tác kinh tế và an ninh để khai thác thị trường du lịch chung, thị thực vào một nước có thể vào nước khác trong nội khối. Kéo dài thời hạn miễn thị thực và cấp thị thực lên 90 ngày theo thông lệ các nước trên thế giới và cho phép du khách vào nhiều lần. Xem xét xây dựng chính sách thị thực dài hạn 5 - 10 năm cho một số nhóm đối tượng du khách đặc thù như nhóm đầu tư mua bất động sản ngôi nhà thứ hai hoặc du mục kỹ thuật số.

Thứ năm, cần một hình ảnh mới mẻ hoàn toàn về Việt Nam. Cần xây dựng một chiến lược tiếp thị, truyền thông thống nhất và hoàn toàn mới từ slogan, video, hình ảnh về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, tự nhiên, ẩm thực hấp dẫn nhất. Khắc phục tình trạng mỗi tỉnh, thành phố làm tiếp thị và truyền thông riêng rẽ, làm cho nguồn lực đã mỏng, còn bị phân tán. Tìm ra các điểm truyền thông cốt lõi cho tổng thể và từng thị trường hướng đến các mục tiêu như du lịch, thương mại - dịch vụ, xuất khẩu và thu hút đầu tư. Ví dụ, các điểm cần tập trung truyền thông là Việt Nam an toàn; biển và bãi tắm biển Việt Nam hàng đầu thế giới; giá cả rất cạnh tranh, bằng nửa so với đi du lịch Caribe đối với du khách châu Âu…

Người châu Âu thích đi du lịch Caribe hơn. Mặc dù khoảng cách đến châu Mỹ và châu Á tương đương với khoảng 12 tiếng bay nhưng đến châu Mỹ, người châu Âu cảm thấy như về nhà vì tương đồng về chính trị, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, dòng máu. Tuy vậy, chi phí đi châu Mỹ của du khách châu Âu cao hơn khoảng gần gấp đôi (trừ chi phí vé máy bay tương đương). Đây là điểm cộng và Việt Nam cần tập trung đẩy mạnh quảng bá hình ảnh về hệ thống khách sạn, khu nghỉ dưỡng tiện nghi và cập nhật trong nhóm dẫn đầu thế giới cũng như có ẩm thực ngon và phong phú như là quốc gia xuất khẩu gạo và cafe hàng đầu thế giới hay món phở làm từ gạo ngon nhất thế giới.

Thứ sáu, giữ vững và mở rộng thị trường trọng điểm. Không nên đặt châu Mỹ là thị trường du lịch trọng điểm vì khoảng cách đến Việt Nam xa, chi phí cao trong khi họ có nhiều lựa chọn cạnh tranh ngay trong châu Mỹ. Về thiên nhiên, châu Mỹ có Caribe - một trong những trung tâm du lịch biển toàn cầu; nhiều thành phố biển rất đẹp như Miami, Hawaii (Mỹ), Cancun (Mexico), Rio De Janeiro (Brazil), Varadero (Cuba); rừng Amazon. Di sản thế giới, văn hóa lễ hội và ẩm thực cũng phong phú. Du khách có thể đi trú đông xuống Nam Mỹ và Hawaii, bang nhiệt đới nắng ấm với bãi biển đẹp nổi tiếng Waikiki. Vì thế, lượng khách châu Mỹ sang châu Á, trong đó có Việt Nam không nhiều (hiện chỉ Mỹ là có lượng du khách đến Việt Nam nhiều nhất các nước châu Mỹ do đặc thù có cộng đồng Việt Kiều hơn 3 triệu người ở Mỹ thường xuyên về Việt Nam). Việt Nam không nên dành nhiều nguồn lực thu hút du lịch từ đây, mà cần tập trung giữ vững thị trường trọng điểm truyền thống là các nước Đông Bắc Á, châu Âu, Nga, Úc, New Zealand, nội khối ASEAN và mở rộng sang Ấn Độ, các nước Ả Rập…

Thứ bảy, xây dựng các chính sách phối hợp. Chính sách thu hút người về hưu, người giàu, người có kỹ năng và du mục kỹ thuật số đến Việt Nam du lịch, nghỉ ngơi, vui chơi và làm việc; xây dựng chính sách ngôi nhà thứ hai để thúc đẩy du lịch, đầu tư và thương mại.

Thứ tám, tiếp tục xây dựng các công trình biểu tượng và các điểm check-in. Các thành phố lớn trên thế giới đều có điểm check-in là tên các thành phố đặt ở những nơi công cộng như quảng trường, công viên… để người dân và khách du lịch chụp ảnh check-in ghi dấu ấn đã từng đến đó. Nhiều thành phố có các công trình biểu tượng như Golden Gate Bridge (San Francisco, Mỹ), quần đảo cây cọ (Palm Islands) và tháp Burj Khalifa (Dubai); các nước Mỹ La tinh ưa chuộng tranh đường phố graffiti; nhiều thành phố tạo thành các bức tranh đầy màu sắc bằng tranh vẽ, gạch mosaic hoặc gốm trên các dốc nhiều bậc để thu hút du lịch. Việt Nam cần quan tâm đến việc có các công trình biểu tượng thu hút du khách. Ví dụ, có thể biến các công trình hiện hữu như trang trí cầu Nhật Tân, Long Biên thành màu đỏ, da cam hoặc màu nào đó ấn tượng, phù hợp… và xây dựng các điểm để du khách đến check-in.

Thứ chín, Việt Nam cần xây dựng kinh tế ban đêm với các chính sách tương ứng để thu hút du khách đến, ở lại lâu hơn, tiêu tiền nhiều hơn và quan trọng là đáp ứng nhu cầu của du khách. Ví dụ, châu Âu và Việt Nam lệch múi giờ 5 - 6 tiếng. Khi Việt Nam 12 giờ đêm thì châu Âu mới 6 giờ tối. Nếu chúng ta không có kinh tế ban đêm, du khách sẽ làm gì? Họ đến để du lịch chứ có phải để đi ngủ đâu. Paris, London, Amsterdam, Hamburg, Majorca, Ibiza, Toronto, Miami, Rio De Janeiro, Tokyo, Seoul, Hongkong, Bangkok, Singapore, Sydney… là các trung tâm thu hút du khách bằng kinh tế ban đêm trên toàn cầu mà Việt Nam có thể tham khảo.

Cuối cùng, Việt Nam cần có những sự kiện, lễ hội tầm cỡ quốc tế. Brazil hàng năm tổ chức lễ hội người gay thế giới với hàng triệu người tham dự. Năm 2022, lễ hội này tổ chức ở bãi biển TP. Rio; Dubai có lễ hội mua sắm hàng năm thu hút hàng triệu du khách; lễ hội bia ở Munich (Đức) cũng rất thu hút du khách. Việt Nam cần nghiên cứu tổ chức thêm các lễ hội hoặc sự kiện tầm thế giới, ngoài lễ hội pháo hoa ở Đà Nẵng, hiện cũng chưa triển khai được tiếp.

Một cách khiêm tốn nhất có thể khẳng định rằng, Việt Nam hội tụ đầy đủ các yếu tố về địa chính trị, thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, con người, ẩm thực, mua sắm để cạnh tranh sòng phẳng thu hút du khách quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới nếu chúng ta thẳng thắn nhận diện những nút thắt, quyết tâm thay đổi tư duy làm du lịch và có kế hoạch hành động mới mẻ, quyết liệt với khát vọng Việt Nam trở thành cường quốc du lịch thế giới./.

TS. LS. Đoàn Văn Bình
Lê Quyên
01/12/2023 11:22
Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top