Khu phố làng tôi
Nhưng chuyện không phải qua một đêm làng lên phố, từ nông dân cày sâu cuốc bẫm bỗng chốc thành thị dân bán buôn "cày trên đường nhựa", thực ra nó là cả một quá trình đã âm thầm tích lũy biến đổi từ hàng chục năm nay rồi. Là bởi quê tôi vốn có thể coi là vùng ven đô, chỉ cách Hồ Gươm khoảng 30km đường quốc lộ. Thế nên như một lẽ đương nhiên, khi quy mô kinh tế và đô thị của các thành phố lớn phát triển, vùng ngoại ô bị cuốn hút vào theo. Thế là miền quê Kinh Bắc vốn yên ả từ ngàn năm nay cũng bị nhập vào trào lưu không cưỡng được: Công nghiệp hóa, đô thị hóa.
Ruộng đất nông nghiệp của làng cứ teo dần đi. Các khu công nghiệp, khu đô thị hiện đại thi nhau mọc lên. Dân làng Ngọc xưa vốn làm ruộng, chạy chợ, làm nghề phụ (hàng mã)…, nay cũng dần dần và âm thầm chuyển sang làm nghề khác. Lớp trẻ may mắn có được nền giáo dục căn bản, đi học làm bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, công chức nhà nước, nhân viên, công nhân…, không mấy ai còn gắn bó với ruộng đồng nữa. Lớp trung tuổi chuyển làm nghề tự do, nghề dịch vụ, hay các việc thời vụ trong các công ty nhà máy. Người cao tuổi hơn trông nom đưa đón con cháu cho bố mẹ chúng đi làm. Nói chung, cuộc sống là một sự tự điều chỉnh diệu kỳ, nên hầu như không ai thất nghiệp và cũng chẳng nhà nào đói ăn. Về cơ bản, cuộc sống vật chất lại khá giả hơn xưa: Nhà cao tầng, xe máy, ô tô, máy giặt, tivi, tủ lạnh… đủ cả.
Những con đường trục chính chạy trong làng được tém lại gọn gàng, trải nhựa kẻ lề. Rồi một ngày kia, chính quyền họ đem biển gắn tên một ông danh nhân đặt ở các điểm đầu cuối và giao ngõ. Thế là đường làng thành phố. Cả làng Ngọc xưa, nay có tên mới "Khu phố Ngọc"!
Nhưng làng… vẫn còn là làng!
Các dịp sóc vọng trong tháng, các cụ cao niên trong làng vẫn ra đình thắp hương lễ Thánh. Xuân thu nhị kỳ làng vẫn mở hội ở đình, tế Thánh và mở nhiều trò vui: Hát quan họ, đánh cờ người, tổ tôm điếm… Năm năm một lần, vẫn rước nước từ sông Đuống lên vòng quanh các phố, làng về đình làm lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh, mùa màng tươi tốt.
Có điều, hội làng mà mở đúng dịp trùng ngày nghỉ còn đỡ. Vào ngày thường, bọn thanh niên nam nữ vẫn phải đi làm mà luật lao động chẳng có mục nào cho nghỉ hội làng, nên tìm đủ người cho kỳ rước sách thật khó khăn. Là vì bọn trẻ bảo: "Chúng cháu không nghỉ được! Nghỉ vô tổ chức bị đuổi việc, các cụ có sống mà nuôi con cháu cả đời không?". Đi làm nhà nước, công ty doanh nghiệp kỷ luật lao động rất nghiêm, không như đi làm ruộng xưa, nay chả cấy thì để đến mai. Các bô lão ngửa mặt nhìn trời thở dài: "Cứ thế này thì tục lệ làng ta rồi mai một hết!".
Là bởi giờ đây làng đã thành phố.
Làng có lệ làng, phố lại phải có phép tắc của phố. Xưa "đường làng ta, ta đi", thế nào tùy thích! Nay là đường phố phải chấp hành quy tắc luật lệ giao thông, đi bên phải, đèn đỏ dừng lại đèn xanh mới được đi tiếp. Thật là rắc rối. Nhưng đường xưa chỉ đi bộ, đi xe đạp. Nay ô tô, xe máy phóng vun vút, không theo luật giao thông thì có mà chết vãn. Phải chấp hành thôi. Đám xá cưới xin ma chay xưa cứ dựng rạp chiếm cả đường làng, ăn cỗ uống rượu ba ngày. Nay không được phép chiếm dụng lòng đường như thế: Tất cả đến nhà văn hóa khu! Việc cỗ bàn cũng giản tiện, gộp tất cả vào một bữa để xong việc còn cho con cháu đi làm.
Trước đây đất đai rộng rãi, mỗi nhà có hẳn một khoảnh vườn tược ao giếng. Thích làm nhà ở đâu trong đó là tùy, hướng đông nam tây bắc theo sở thích. Chẳng phải xin phép ai. Nay đất chật người đông, nhà mặt đường phải đồng loạt quay ra phố, xin giấy phép xây dựng tuân theo quy tắc đô thị cẩn thận. Mấy ông già ngồi thở dài than rằng rắc rối con mẹ hàng tơ quá. Thế nhưng cánh trẻ lại bảo thế là phải, thế rồi dần đường làng mới ra đường phố, để tự do như xưa thì rồi ra thành cái gì? Làng không ra làng phố không ra phố…
Nhưng thành phố rồi, nhà nào nhà nấy lại cửa xếp, cửa cuốn, cửa kính thủy lực bịt bùng ra vào đóng chặt kín bưng xa cách. Không còn cảnh hàng xóm láng giềng gọi nhau uống trà sớm tối như xưa. Đến tình cảm họ hàng nội ngoại gần gũi thế mà nay dường như phai nhạt dần! Nhưng bọn trẻ lại bảo, đi làm suốt ngày ở cơ quan, trường học, nhà máy, công ty. Về đến nhà là chỗ nghỉ ngơi tái tạo năng lượng, cứ à uôm trò chuyện dây cà dây muống mãi còn đâu thời gian mà nghỉ. Nên đành chịu vậy thôi.
Rồi ở làng ngày xưa nuôi con chó con gà, chạy tung tăng sang vườn nhà hàng xóm, "không ai nuôi chó một nhà, nuôi gà một vườn"! Nay nhà cửa san sát, phố phường như nêm chỗ nào nữa cho chó cho gà chạy? Có nuôi con chó làm cảnh cho vui nhà cũng bao nhiêu khê: Rọ mõm, tiêm phòng, dắt đi ị, chứ để thả chạy lung tung không những mất chó mà còn có khi bị chính quyền lôi ra phạt.
Làng lên phố, vườn xưa chia mảnh, đất phân lô đất, thành ra tấc đất tấc vàng. Không khéo khu xử trong nhà anh em cùng một bố mẹ đã mâu thuẫn đánh cãi chửi nhau vì vài mét đất, chưa nói đến hàng xóm láng giềng. Tình hàng xóm láng giềng xưa, "tối lửa tắt đèn có nhau" như một điều gì thành quá vãng xa xôi, bởi nhịp sống phố phường công nghiệp nó cuốn đi tất cả. Tất cả nó cô đọng lại trong đời sống từng gia đình nhỏ. Tính cộng đồng làng xã xưa dường như phai nhạt đi là điều tất yếu.
Rất nhiều bất cập.
Thế nhưng ngay từ thời kỳ đầu nông thôn nước Việt tiếp xúc với nền văn minh phương Tây, từ những năm đầu của thế kỷ trước, thi sĩ Nguyễn Bính đã từng nuối tiếc: "Van em! Em hãy giữ yên quê mùa"! Nhưng rồi nàng thiếu nữ thôn quê đó vẫn cứ trút bỏ yếm sồi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ để mà khoác lên bộ cánh thời thượng với khuy bấm, khăn nhung quần lĩnh! Bởi suy cho cùng, đó là dòng chảy của thời gian, của sự tiến hóa về phía văn minh tiến bộ, nàng thôn nữ không thể cưỡng lại được. Nên dù van nài thế nào, cô thôn nữ vẫn cứ rộn ràng theo cái mới. Nhà thơ chỉ còn biết âm thầm thở than chấp nhận: "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều"! Phải bay đi ít nhiều thôi, để cho những hương vị của cuộc sống mới văn minh còn có chỗ đứng chứ sao nữa…
Ngày nay, công nghiệp hóa, đô thị hóa trên khắp nước ta đang là một xu thế, một trào lưu của cuộc sống mới mà không một cá nhân, một địa phương làng xã nào có thể cưỡng lại được. Tất cả sẽ phải làm quen và hòa nhập vào đời sống của đô thị và cuộc sống thời công nghiệp hóa. Những lối sống, thói quen, tục lệ nhiêu khê rườm rà, chậm chạp của nền văn minh nông nghiệp, của cộng đồng làng xã lúa nước xưa không còn phù hợp nữa, dần sẽ phải bị lãng quên. Như các cô thôn nữ làng xưa giờ lại diện quần bò, váy áo là lượt, giày cao gót lái ô tô lượn phố đi làm, nào còn ai áo tứ thân, khăn mỏ quạ hay thậm chí quần lĩnh cùng là khuy bấm! Ta đã nói, cuộc sống là một sự tự điều chỉnh thường xuyên và vô cùng vĩ đại, cái gì phù hợp tồn tại với thời gian, cái gì không phù hợp cứ tự động rơi rụng ra khỏi cuộc đời, hầu như mấy khi phải van nài ép buộc nhau đâu?
Trước xu thế không cưỡng nổi của đô thị hóa hiện nay, có nhiều người bày tỏ lo lắng về cái sự mai một bản sắc văn hóa cộng đồng trong làng Việt. Quả thực nỗi lo này cũng có cơ sở. Bởi bản sắc văn hóa làng Việt cố kết với nhau trong một cộng đồng chặt chẽ đã làm nên bản sắc tinh thần cơ bản của văn hóa dân tộc. Thậm chí, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng, sở dĩ chúng ta không bị đồng hóa sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, là do có nền văn hóa cộng đồng làng xã rất đậm đặc chất Việt tộc trong đó. Nếu bây giờ, các tổ chức tế bào cơ bản của nước Việt xưa là làng xã bị biến dạng đi, thậm chí bị phá vỡ hết đi, rồi cái nền văn hóa cộng đồng làng xã cũng theo đó phai nhạt đi, mất đi thì rồi sẽ ra sao? Người Việt lấy cái gì để neo giữ tinh thần trong cơn lốc hội nhập của thời đại mới?
Đem mối ưu tư đó vào quan sát cuộc sống của cư dân Việt ở các đô thị lớn nhỏ mới mở ra trong thời gian gần đây, tôi thấy có vẻ như điều lo lắng của các học giả đó hơi thừa: Dù đi đến đâu, ở đâu trên dải đất hình chữ S này, con người Việt từ trong bản chất, mang căn cốt của cây tre mềm dẻo, vẫn tự biết gạn đục khơi trong. Những gì tinh hoa thuộc về bản chất dân tộc, truyền thống ngàn đời vẫn tự động được giữ gìn trong sâu thẳm mỗi cá nhân và gia đình, dòng họ. Những gì là thừa thãi rườm rà trong cuộc sống đô thị sẽ tự nhiên bị lược bỏ dần.
Bởi thế trong những ngày Tết đến Xuân về này, chúng ta chỉ cần nhìn những dòng người tất bật nhưng hân hoan rạng rỡ nối nhau về quê, về một ngôi làng xa xăm nào đó của tổ tiên là đủ thấy. Thấy tiếng gọi của truyền thống ngàn đời mạnh mẽ sâu xa đến thế nào. Thậm chí không cần phải nhìn đâu xa, bạn hãy nhìn ngay lên ban thờ gia tiên nhà mình, vào thời khắc giao thừa, thấy các bậc bề trên trưởng thượng nhà mình đang chỉnh tề nghiêm cẩn thắp hương lầm rầm khấn vái. Ta sẽ thấy hồn dân tộc vẫn là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng luôn xuyên suốt qua mọi thế hệ, mọi thời gian, không gian dù là làng hay phố!
Vì thế nước Việt và dân tộc Việt mãi trường tồn./.