PGS.TS Phạm Thế Anh: “Nền kinh tế Việt Nam lúc này rất cần chính sách tài khóa nghịch chu kỳ“

PGS.TS Phạm Thế Anh: “Nền kinh tế Việt Nam lúc này rất cần chính sách tài khóa nghịch chu kỳ“

Thứ Tư, 05/04/2023 - 06:09

"Theo tôi, Chính phủ cần đẩy mạnh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ để đạt được hiệu quả tốt hơn, nhất là khi ngân sách không có gì căng thẳng và nợ công giảm", PGS.TS Phạm Thế Anh chia sẻ.

*****

Tổng cục Thống kê mới đây đã công bố báo cáo kinh tế vĩ mô quý I/2023. Theo đó, 3 tháng đầu năm, GDP chỉ tăng 3,32%, là mức thấp nhất trong 12 năm qua, nếu loại trừ quý I/2020. Sự suy giảm của lĩnh vực công nghiệp - xây dựng là nguyên nhân chính khiến GDP quý I tăng rất thấp và nếu tiếp tục kéo dài hết quý II sẽ gây ra những ảnh hưởng nhất định tới sức khỏe của nền kinh tế Việt Nam.

Trong cuộc trao đổi mới nhất với Reatimes, PGS.TS Phạm Thế Anh - Trưởng khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng chính sách tiền tệ luôn có độ trễ khá lớn, bởi vậy Chính phủ cần xem xét tới phương án đẩy mạnh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ để đạt được hiệu quả tốt hơn, nhất là khi ngân sách đang không có gì căng thẳng và nợ công thấp.

SỐ VỐN ĐĂNG KÝ CỦA DOANH NGHIỆP GIẢM MẠNH

PV: Tăng trưởng thấp trong quý I/2023 là điều đã được dự báo trước, nhưng có lẽ 3,32% vẫn là một con số gây bất ngờ. Ông có bình luận gì khi nhìn vào các con số tăng trưởng trong báo cáo của Tổng cục Thống kê?

PGS.TS Phạm Thế Anh: Chúng ta cần lưu ý rằng quý I năm ngoái, Việt Nam vẫn còn dịch bệnh nên chưa mở cửa hoàn toàn, dẫn đến tăng trưởng GDP khá thấp. Một nền so sánh thấp như vậy mà quý I/2023 chỉ tăng có 3,32% thì phải nói đó là một kết quả khiến chúng ta có những lo lắng.

Nhìn về động lực, có thể thấy tăng trưởng GDP trong quý I/2023 chủ yếu nhờ khu vực dịch vụ (tăng 6,79%), trong khi nông - lâm - thủy sản tăng chậm lại (2,25%), còn công nghiệp - xây dựng thì tăng trưởng âm. Sự suy giảm của công nghiệp - xây dựng, lĩnh vực có ý nghĩa nền tảng, là một chỉ dấu không tốt cho sức khỏe của nền kinh tế.

Chúng ta thấy những dấu hiệu tăng trưởng chậm lại của công nghiệp - xây dựng đã xuất hiện từ cuối năm ngoái khi nhiều ngành nghề sản xuất thiếu hụt đơn hàng xuất khẩu, sa thải nhân công. Nguyên nhân phần rất lớn đến từ quá trình thắt chặt tiền tệ tại các nền kinh tế lớn ở châu Âu và Mỹ, làm suy yếu sức tiêu dùng tại các quốc gia này, qua đó làm giảm động lực xuất khẩu của Việt Nam. Còn trong nước, việc thị trường bất động sản chìm trong khó khăn đã tạo ra vô số khó khăn cho hàng chục ngành nghề liên quan, trong đó nặng nhất là xây dựng và vật liệu xây dựng. Đáng lo ngại hơn nữa là tình trạng này khó có thể cải thiện ngay trong quý II, đồng nghĩa nền kinh tế vẫn còn đối diện với nhiều khó khăn.

Về động lực tăng trưởng chính - dịch vụ, cũng thấy tồn tại một số vấn đề. Dịch vụ năm nay tăng đáng kể so với năm trước là bởi năm trước vẫn còn dịch bệnh nên chưa mở cửa. Như vậy sự tăng trưởng của dịch vụ năm nay là điều tất yếu, chứ không hẳn là một chỉ dấu cho thấy nội lực mạnh mẽ và bền vững của sức cầu. Thực tế cũng cho thấy dịch vụ chỉ mạnh mẽ ở 2 tháng đầu năm, tức giai đoạn lễ Tết, còn từ tháng 3 đã chậm lại rồi. Nguyên nhân là kinh tế đi xuống, thu nhập của người dân giảm sút, sức cầu cũng yếu đi. Chúng ta rất khó kỳ vọng trong quý II/2023, dịch vụ tiếp tục tăng cao, nếu như không có các chính sách hỗ trợ đủ mạnh.

Một điều khác cũng rất băn khoăn khi nhìn vào bức tranh vĩ mô quý I/2023 là số lượng doanh nghiệp thành lập mới thấp hơn so với cùng kỳ ở hầu hết ngành nghề, ví dụ ở nông - lâm - thủy sản chỉ bằng 50%, ở công nghiệp xây dựng và dịch vụ chỉ khoảng 87%. Số vốn đăng ký của doanh nghiệp cũng giảm sâu so với năm trước, ví dụ nông - lâm - thủy sản chỉ còn 33,6%, công nghiệp xây dựng và dịch vụ chỉ còn khoảng 60 - 70%. Số doanh nghiệp trở lại hoạt động cũng chỉ bằng 90% so với cùng kỳ năm trước, giảm cả ở 3 lĩnh vực. Ngược lại, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường lại tăng lên, nhất là ở 2 lĩnh vực là công nghiệp và nông nghiệp.

PV: Những diễn biến vừa qua cho thấy Chính phủ đã lường trước đầy đủ về các vấn đề này, nên ngay từ đầu năm đã có những biện pháp khá mạnh để hỗ trợ tăng trưởng, bao gồm tăng tốc giải ngân đầu tư công, giảm lãi suất, thúc đẩy các gói tín dụng ưu đãi quy mô lớn, giải quyết khó khăn của thị trường trái phiếu và bất động sản. Ông có cho rằng các biện pháp này là đủ mạnh và sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn trong thời gian tới?

PGS.TS Phạm Thế Anh: Rõ ràng đó đều là những động thái rất tích cực, cố gắng lấy lại niềm tin của nhà đầu tư và hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh, tuy nhiên hiệu quả tới đâu thì vẫn còn phải chờ thời gian trả lời. Chẳng hạn Nghị quyết 33 đã xác định rất đúng các vấn đề của thị trường bất động sản, nhưng bao giờ hiện thực hóa được các nội dung của nghị quyết đó thì vẫn còn là ẩn số. Hay với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, Nghị định 08 đã mở ra một con đường thoát hiểm cho nhà phát hành, song các giải pháp của nghị định chỉ có tác dụng xoa dịu căng thẳng chứ chưa thể giải quyết triệt để được các vấn đề then chốt ngay, bởi vậy mà thị trường bất động sản vẫn chưa thoát khỏi khó khăn trong các tháng tới. Điều này đồng nghĩa đóng góp của ngành xây dựng - bất động sản cho tăng trưởng vẫn là rất ít ỏi.

Các gói tín dụng ưu đãi có quy mô rất lớn, song chủ yếu do nhóm ngân hàng quốc doanh (BIDV, Vietcombank, VietinBank, Agribank) tự triển khai, không có cam kết mang tính ràng buộc nào với Nhà nước về kết quả. Lãi suất cho vay mua nhà đối với người dân hoặc đầu tư của doanh nghiệp đối với xã hội, mặc dù là ưu đãi, nhưng vẫn ở mức rất cao.

Ngay cả với việc Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất điều hành, dù là bước đi đúng đắn nhưng hiệu quả sẽ không thể tới nhanh được, vì lãi vay vẫn còn khá cao và độ trễ của chính sách là khá lớn.

GIÃN VÀ HOÃN NỢ: THUẬN LỢI ĐI CÙNG THÁCH THỨC

PV: Trong bối cảnh khó khăn như vậy, dường như chính sách tiền tệ được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ tăng trưởng là giải pháp phù hợp, thưa ông?

PGS. TS Phạm Thế Anh: Chính sách tiền tệ là "bài thuốc" quen thuộc để trị bệnh tăng trưởng yếu, tuy nhiên phải gồng gánh cùng lúc rất nhiều mục tiêu, như khống chế lạm phát, bảo vệ tỷ giá, đảm bảo sự an toàn của hệ thống ngân hàng, do đó kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn.

Ngân hàng Nhà nước hiện nay còn đang tính tới phương án cho khách vay giãn, hoãn nợ - tương tự như trong giai đoạn dịch bệnh, hay nghiên cứu sửa đổi Thông tư 16 cho phép tổ chức tín dụng mua lại trái phiếu.

Về nguyên lý, các biện pháp này nếu được thực hiện thì tạo thuận lợi thêm cho doanh nghiệp và nhà đầu tư, nhưng cũng sẽ làm gia tăng rủi ro cho hệ thống ngân hàng, đây là yếu tố cản trở biên độ mở rộng của chính sách tiền tệ.

Do vậy, nếu chỉ đơn thuần sử dụng chính sách tiền tệ để tạo ra hiệu quả tăng trưởng thì rất khó, nhất là trong bối cảnh niềm tin kinh doanh bị sa sút như vừa qua, doanh nghiệp sẽ không vay cho dù tiền rẻ, nếu đầu ra yếu. Mặt khác, chính sách tiền tệ luôn có độ trễ, thời gian phải tính bằng quý, cộng thêm những biến động từ kinh tế thế giới sẽ có tác động tới các hoạt động trong nước.

PV: Vậy theo ông, cần có thêm chính sách gì để hỗ trợ, doanh nghiệp và người dân, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn?

PGS.TS Phạm Thế Anh: Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta thấy chính sách tài khóa có ý nghĩa lớn. Tôi vẫn khuyến nghị Chính phủ thực thi chính sách tài khóa nghịch chu kỳ. Tức là khi nền kinh tế suy thoái thì cần chi tiêu nhiều hơn, giảm thu thuế để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Tuy nhiên, mấy năm qua, ta thấy ngân sách thặng dư mà chi tiêu lại ít, lại ứ đọng. Tài khóa thuận chu kỳ như vậy thì áp lực sẽ dồn sang chính sách tiền tệ, mà chính sách tiền tệ thì như trên đã nói.

Tôi cho rằng trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ nên đẩy mạnh chính sách tài khóa, vì đang có điều kiện khi ngân sách không căng thẳng, nợ công có xu hướng giảm. Như vậy cộng đồng doanh nghiệp nói chung và bất động sản nói riêng có thêm những điều kiện thuận lợi để vượt qua khó khăn, cũng có nghĩa là sẽ tiếp tục góp phần vào sự ổn định kinh tế - xã hội trong những năm tới.

Theo tổng kết của Bộ Tài Chính, tỷ lệ nợ công của Việt Nam trong những năm gần đây giảm dần, từ 61,4% GDP (năm 2017) xuống 58,3% GDP (năm 2018); 55,9% GDP năm 2020 và 43,1% năm 2021. Năm 2022, nợ công được dự tính tương đương với năm 2021. Những số liệu trên là một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta tự tin xem xét đẩy mạnh chính sách tài khoá nghịch chu kỳ.

PV: Ông dự báo triển vọng kinh tế quý tới sẽ như thế nào?

PGS.TS Phạm Thế Anh: Trong quý II/2023, khả năng cao là tình hình kinh tế không có nhiều cải thiện so với quý I. Những hỗ trợ của chính sách tiền tệ chưa thể tạo ra tác động tích cực tới hoạt động của doanh nghiệp, trong khi đó xu hướng thắt chặt vẫn đang duy trì ở các nền kinh tế lớn.

Chúng ta sẽ chờ đợi diễn biến tiếp theo của các ngân hàng trung ương lớn ở Mỹ và EU, động thái về tài khóa của Chính phủ cũng như các chính sách khác. Nếu có diễn biến tốt, nền kinh tế có thể lấy lại sinh khí trong quý III/2023. Tôi cũng tin rằng Chính phủ sẽ sớm có thêm các giải pháp phù hợp để đẩy lùi khó khăn và giành được những kết quả khả quan hơn trong thời gian tới. Theo tôi, với những diễn biến khó lường trên thế giới hiện nay cộng với những khó khăn trong nội tại thì mức tăng trưởng 5% trong cả năm nay cũng là một con số ấn tượng.

PV: Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!

Hải Thu
Thế Công
Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top