Bởi đây là kết quả của cả một quá trình với nỗ lực rất lớn của toàn Ngành, của bản thân từng tổ chức tín dụng (TCTD), đi cùng đó là những chủ trương chính sách kịp thời, phù hợp của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng trao đổi với báo chí nhằm làm rõ những dư luận xung quanh cái gọi là “lợi nhuận khủng” của ngân hàng.
PV: Thưa ông, từ cuối năm 2020 tới nay, nhắc tới ngành Ngân hàng, thông tin trên truyền thông thường hay đề cập tới những khoản “lợi nhuận khủng”. Vậy cần đánh giá thông tin này ra sao?
Ông Nguyễn Quốc Hùng: Nhìn nhận một cách tổng thể, thời gian qua, đặc biệt trong năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021, số liệu thống kê ghi nhận hoạt động của ngành Ngân hàng có bước khởi sắc, phần lớn TCTD đạt kết quả kinh doanh theo Nghị quyết đại hội đồng cổ đông đề ra.
Lợi nhuận ngân hàng được các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp so với mặt bằng xã hội là con số khá lớn, nhưng nếu tính bình quân trên mặt bằng tổng tài sản, vốn điều lệ, các chỉ số tài chính như ROA, ROE… thì lợi nhuận của các TCTD không phải cao so với một số ngành, lĩnh vực khác.
Có thể khẳng định, lợi nhuận của các TCTD là kết quả của cả một quá trình và được tổng hợp từ nhiều yếu tố như: Cơ chế chính sách của Nhà nước được ban hành kịp thời (Nghị quyết 42), chủ trương, chính sách chỉ đạo của NHNN trúng và phù hợp với thực tế hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng; nỗ lực quyết liệt tái cơ cấu của TCTD; việc ngân hàng chủ động đầu tư sớm vào ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại với chi phí rất lớn trước đây nay đã thu được “trái ngọt”, vừa giúp khách hàng tiếp cận dễ dàng với dịch vụ, sản phẩm ngân hàng với nhiều tiện ích, vừa giúp ngân hàng tiết giảm chi phí hoạt động; nguồn thu từ thu nhập bất thường…
Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt. Do đó, cần phải có những ứng xử và cách nhìn đặc biệt chứ không nên chỉ nhìn vào lợi nhuận của ngân hàng. Khác với các doanh nghiệp khác, lợi nhuận ngân hàng tốt sẽ kéo theo hệ quả là hệ số tín nhiệm của các ngân hàng tăng lên, qua đó góp phần nâng hệ số tín nhiệm quốc gia. Do vậy, trong bối cảnh đại dịch hiện nay, lợi nhuận ngân hàng cao phải được nhìn nhận là điều may mắn. Từ đó, ngân hàng mới có thêm nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.
PV: Ngân hàng được xem là huyết mạch của nền kinh tế. Vậy tại sao khi kinh tế chịu tác động bởi đại dịch, tăng trưởng thấp, doanh nghiệp và người dân khó khăn thì ngân hàng vẫn đạt lợi nhuận lớn, thưa ông?
Ông Nguyễn Quốc Hùng: Câu hỏi này chính là điều mà lâu nay tôi rất muốn chia sẻ để làm rõ. Lợi nhuận của ngân hàng cần phải được hiểu đúng, nhìn nhận khách quan, toàn diện ở các góc độ.
Thứ nhất, bản thân các TCTD đã tự củng cố, nâng cao được năng lực quản trị, năng lực tài chính của mình. Đơn cử, năng lực tài chính được nâng cao thông qua biện pháp tăng vốn điều lệ. Gần như tất cả các TCTD đã tăng được vốn điều lệ để đảm bảo hệ số an toàn vốn (CAR) theo quy chuẩn quản trị rủi ro quốc tế Basel II. Nhiều ngân hàng trong nhiều năm liền không chi trả cổ tức cho cổ đông để dành nguồn lực vốn cho tương lai. Đây chính là một trong những cơ sở tạo điều kiện cho TCTD đảm bảo an toàn hệ thống của chính mình, qua đó giúp tăng năng lực quản trị một cách bền vững.
Thứ hai, các TCTD đã đẩy mạnh tiết giảm chi phí hoạt động. Việc sớm đầu tư thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và tích cực cải cách thủ tục hành chính đã giúp các ngân hàng tiết giảm được rất nhiều chi phí hoạt động. Nhất là trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, những sự đầu tư này đã phát huy hiệu quả rất tốt.
Đặc biệt phải kể tới sự hình thành ngân hàng số - một trong những bước chuyển mạnh mẽ của ngành Ngân hàng. Ngân hàng số đem tới sự giản tiện cho người sử dụng. Chúng ta có thể thấy hiện nay, mọi người dân đều có thể dễ dàng sử dụng điện thoại để chuyển tiền, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt ở mọi nơi, mọi lúc mà không cần phải đến ngân hàng… Cũng bởi có ngân hàng số và thanh toán điện tử mà lượng tiền mặt trong lưu thông chủ yếu luân chuyển giữa các tài khoản tại ngân hàng, giúp các TCTD gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn với lãi suất thấp. Nhờ đó, các TCTD có điều kiện tiết giảm chi phí huy động vốn đầu vào.
Thứ ba, khác với trước kia, nguồn thu của ngân hàng chủ yếu là từ thu lãi vay, thì nay tỷ lệ thu từ dịch vụ tại các TCTD đều gia tăng, có ngân hàng thu dịch vụ đóng góp tới 40% vào lợi nhuận và điều này phù hợp với xu thế quốc tế.
Thứ tư, quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu tại các TCTD mang lại hiệu quả cao. Tới nay, 21 TCTD đã mua lại các khoản nợ đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), hoạt động trích lập dự phòng rủi ro cũng được tăng cường.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Nghị quyết 42 và hiệu quả trong điều hành kinh tế của Chính phủ đã giúp kinh tế tăng trưởng ổn định, những khoản nợ liên quan đến bất động sản, hoặc những bất động sản tồn đọng trước đây, đều được xử lý nhanh và hiệu quả hơn. Đây là một trong những điểm quan trọng giúp phá tan “cục máu đông” nợ xấu, tạo điều kiện luân chuyển vốn trong nền kinh tế, giúp tăng tỷ lệ thu nhập bất thường ở các TCTD trong thời gian qua.
Thứ năm, bản thân các TCTD đã tích cực mở rộng hoạt động dịch vụ như ngân hàng đại lý, bảo hiểm và nhiều hoạt động khác, qua đó giúp tăng thu nhập.
Thứ sáu, sau hơn một năm tổ chức thực hiện Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của NHNN quy định về việc các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ; miễn, giảm lãi, phí; giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 đã giúp các TCTD tạm thời chưa phải trích lập dự phòng rủi ro nên cũng giảm được chi phí. Nếu trừ đi khoản này, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm mạnh.
Thứ bảy, lợi nhuận ngân hàng đang được tạm tính trên cả các khoản dự thu của khách hàng theo quy định hiện hành của pháp luật. Nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng phải thoái thu, lúc đó sẽ không được ghi nhận vào lợi nhuận nữa.
Tóm lại, tôi muốn khẳng định lợi nhuận ngân hàng đến từ rất nhiều nguyên nhân và là kết quả kết tinh từ một quá trình nỗ lực lâu dài, trong đó có cả việc chịu sự dồn nén từ rất nhiều năm trước khi phải tích góp, thắt lưng buộc bụng để xử lý dự phòng rủi ro, đảm bảo đưa tỷ lệ nợ xấu xuống trong phạm vi cho phép và dành nhiều nguồn lực cho đầu tư công nghệ.
PV: Có ý kiến cho rằng, ngân hàng thu lợi nhuận cao phần nhiều do lãi suất đầu vào giảm nhưng lãi suất đầu ra lại không giảm tương ứng. Liệu chênh lệch lãi suất đầu vào với lãi suất đầu ra của TCTD hiện có quá lớn không?
Ông Nguyễn Quốc Hùng: Tôi nhấn mạnh lại một lần nữa, cần phải nhìn lợi nhuận của ngân hàng một cách toàn diện và đầy đủ trên mọi khía cạnh.
Còn nói lợi nhuận ngân hàng tăng do “ăn” chênh lệch lãi suất cao là hoàn toàn không chính xác. Thực tế cho thấy, chênh lệch lãi suất đầu vào với đầu ra có doãng ra trong năm 2021 nhưng độ doãng đó hợp lý và phù hợp với thực tế (chênh lệch này chưa tính toán đến chi phí hoạt động và chi phí rủi ro), chứ không phải do ngân hàng lợi dụng việc giảm lãi suất đầu vào mà tăng hoặc giữ nguyên lãi suất cho vay.
Tỷ lệ vốn không kỳ hạn tăng thêm, chi phí giảm xuống, vốn điều lệ được bổ sung đảm bảo hệ số CAR là điều kiện cho ngân hàng giảm lãi suất. Nhưng việc giảm lãi cũng phải có bước đi, lộ trình phù hợp. Hiện tỷ lệ nợ trung và dài hạn tại các ngân hàng lên tới 40%. Do trước đây các khoản vay này đều có lãi suất cao, nên tới khi giảm lãi suất, bắt buộc phải thực hiện giảm từng bước (giảm dần) để đảm bảo tỷ lệ đủ bù đắp chi phí của TCTD.
Thực tế cho thấy, ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động minh bạch nhất về chi phí xác định lãi suất đầu vào. Nếu doanh nghiệp vay lãi suất cao trong giai đoạn hiện nay cần phải xem lại hiệu quả của dự án. Ngân hàng nào cho vay thì mức rủi ro rất lớn và phải chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình, do vậy không ngân hàng nào dám cho vay với lãi suất cao trong bối cảnh dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp như hiện nay. Tôi cho rằng mong muốn của ngân hàng là thu đủ gốc và lãi đủ bù đắp chi phí và sẵn sàng giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý.
PV: Như vậy, lợi nhuận ngân hàng thu được trong thời gian qua, theo ông, nên được hiểu thế nào cho đúng?
Ông Nguyễn Quốc Hùng: Lợi nhuận đó là hoàn toàn xứng đáng với nỗ lực không mệt mỏi của các TCTD trong chặng đường dài từ năm 2008 tới nay.
Việc lợi nhuận ngân hàng cao cần phải được nhìn nhận như một dấu hiệu đáng mừng. Bởi ngân hàng là “huyết mạch” của nền kinh tế. “Huyết mạch” có sức khỏe tốt - về mặt tài chính là cơ sở để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển. Đây là điều mà các TCTD đã và đang thực hiện trong suốt thời gian qua.
Đơn cử như việc các TCTD đồng thuận giảm lãi suất trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp ước tính lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, nếu sức khỏe của TCTD không tốt sẽ không đủ khả năng tài chính để giảm lãi. Việc giảm lãi này có lợi trực tiếp cho các doanh nghiệp, từ đó tác động lớn tới toàn bộ nền kinh tế, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển.
Lợi nhuận đang được các TCTD cân nhắc sử dụng một cách chặt chẽ và kỹ lưỡng. Dù con số lợi nhuận cao nhưng tỷ lệ chia cổ tức của các ngân hàng chỉ trong khoảng 5-9%, thậm chí có ngân hàng nhiều năm nay chưa chia cổ tức. Chưa kể, ngân hàng là ngành sẵn sàng chia sẻ lợi nhuận để tích cực đóng góp vào các hoạt động an sinh xã hội, thể hiện tinh thần trách nhiệm với cộng đồng rất cao. Ngành Ngân hàng là một trong những ngành đi đầu và có đóng góp lớn vào các quỹ và hoạt động phòng chống đại dịch COVID-19 do Đảng và Chính phủ phát động thời gian qua, với khoảng trên 1.400 tỷ đồng.
Bằng những hành đông cụ thể, ngành Ngân hàng đang thực sự hỗ trợ, tạo điều kiện chia sẻ với doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đây là những sự chia sẻ thực chất bằng hành động cụ thể chứ không phải chỉ trên lý thuyết.
Cũng cần phải nói thêm, các ngân hàng cũng rất mong muốn được sử dụng phần lợi nhuận có được để tăng vốn điều lệ nhằm ứng phó với những nguy cơ rủi ro trong tương lai - điều rất cần thiết trong bối cảnh dịch bệnh diễn ra hết sức phức tạp. Bản thân các ngân hàng đã rút ra được rất nhiều bài học trong quá trình tái cơ cấu vừa qua, do đó đặc biệt quan tâm đến bảo đảm an toàn hệ thống, an toàn vốn.
PV: Như ông nói, COVID-19 tác động mạnh đến các doanh nghiệp, khách hàng của các ngân hàng, vậy chúng tác động ra sao đối với hoạt động của ngành Ngân hàng?
Ông Nguyễn Quốc Hùng: Ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 tới ngành Ngân hàng là rất lớn, đặc biệt là nguy cơ tiềm ẩn trong tương lai. Theo tôi biết, số nợ cơ cấu theo Thông tư 01/2020 và Thông tư 03/2021 hiện nay là 347 nghìn tỷ đồng. Nhưng con số này khả năng sẽ còn lớn hơn.
Trước diễn biến phức tạp của đại dịch, thời gian tới, sức khỏe của doanh nghiệp và nền kinh tế là hết sức khó khăn. Không chỉ riêng lĩnh vực giao thông vận tải, du lịch bị ảnh hưởng mà rất nhiều lĩnh vực khác cũng chịu tác động. Kể cả những đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả trước đây, dù có đơn hàng, có hợp đồng vẫn phải ngừng sản xuất kinh doanh, đóng cửa do công nhân bị nhiễm bệnh. Nền kinh tế và doanh nghiệp bị ảnh hưởng chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến ngân hàng.
Doanh nghiệp sẽ không có tiền để trả nợ vay ngân hàng, trong khi ngân hàng phải tiếp tục trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 03/2021 trong giai đoạn 3 năm. Như vậy, chắc chắn nợ xấu của ngân hàng sẽ phát sinh và gia tăng trong thời gian tới. Cần phải nhìn nhận, nợ xấu giai đoạn này có nhiều điểm khác so với năm 2008, nguyên nhân gây ra không phải do yếu tố chủ quan mà là khách quan bởi dịch bệnh toàn cầu ảnh hưởng tới không chỉ Việt Nam mà cả ở toàn thế giới. Do đó, hậu quả của đại dịch chắc chắn sẽ rất nặng nề.
Khi doanh nghiệp, khách hàng vay vốn không trả được nợ, ngân hàng sẽ ra sao? Chưa kể Nghị quyết 42 tới tháng 8/2022 sẽ hết hiệu lực, lúc đó việc xử lý nợ xấu của các TCTD sẽ như thế nào? Nợ xấu của ngân hàng sẽ bị đánh giá, nhìn nhận ra sao? Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã gồng mình lên để tái cơ cấu, đầu tư công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cắt giảm chi phí để hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp nhưng tới đây, khi nợ xấu phát sinh và phải đảm bảo đưa tỷ lệ nợ xấu về theo đúng quy định thì ai sẽ hỗ trợ ngân hàng?... Đây là những vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động ngân hàng.
Ngành Ngân hàng cũng đang rất cần sự cảm thông và chia sẻ khó khăn từ cơ quan quản lý và các đối tác. Tuy nhiên, trong bối cảnh các ngân hàng có trách nhiệm cơ cấu nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, miễn giảm lãi, phí… cho các khách hàng, thì ở góc độ khác, các doanh nghiệp viễn thông hay tổ chức thẻ quốc tế đều chưa có sự hỗ trợ cho ngân hàng trong việc giảm phí, dù phía ngân hàng đã nhiều lần có văn bản đề nghị.
Nếu không có dịch COVID-19, những kết quả khởi sắc mà ngành Ngân hàng đạt được là rất đáng trân trọng vì đã tái cơ cấu và từng bước xử lý nợ xấu thành công. Với việc đại dịch bùng phát như hiện nay, ngành Ngân hàng lại tiếp tục sẵn sàng tâm thế bước vào cuộc tái cơ cấu mới với mức độ phức tạp hơn rất nhiều.
Tôi mong những chia sẻ, phân tích cụ thể nêu trên sẽ giúp các cơ quan quản lý và xã hội hiểu rõ hơn, có cái nhìn đúng đắn, chính xác và khách quan về cái vẫn được gọi là “lợi nhuận khủng” ngành Ngân hàng./.