Aa

Phần 2: Bay vào vùng chiến địa

Thứ Ba, 14/05/2019 - 06:00

Viên cảnh sát súng ống đầy người vội nâng cuốn Kinh bằng hai tay và cúi xuống hôn như một nghi lễ đầy vẻ sùng tín. Rồi anh ta đặt cẩn thận cuốn Kinh sang một bên và bắt đầu lục soát hành lý chúng tôi.

Chúng tôi bay trên một chuyến bay của Hãng hàng không Pakistan từ Bangkok đi Lahore, thành phố miền Trung Pakistan vào lúc 8 giờ tối. Từ một tuần trước, tất cả các hãng hàng không nước ngoài đã hủy bỏ mọi chuyến bay đến Pakistan. Hầu hết các sứ quán nước ngoài ở Pakistan cũng đã nhận lệnh di tản. Họ đều biết cuộc chiến tranh đã đến rất gần. Tàu chiến của quân đội Mỹ đã trực chiến ở những vùng biển áp sát Pakistan và một số vùng lân cận, sẵn sàng phóng tên lửa vào những mục tiêu có dấu hiệu nghi ngờ. Nước Mỹ đang đau đớn, đang bị sỉ nhục, đang hừng hực máu trả thù và sẵn sàng làm tất cả để nguôi đi một phần nào những cảm giác ê chề đó.

Hình như an ninh Mỹ đã đặt những trạm kiểm soát của mình ở tất cả những cửa khẩu nước ngoài vào Pakistan. Chưa bao giờ hành khách bị kiểm tra kỹ như vậy ở sân bay. Nhân viên an ninh ở sân bay Bangkok đông hơn những lần trước tôi qua. Tất cả hành khách trên chuyến bay đó đều bị kiểm soát hết sức kỹ lưỡng. Nhân viên an ninh lần từng cổ áo, dây lưng, đế giày, đũng quần, các góc và đáy vali, các hộp kem đánh răng, máy vi tính xách tay, máy ảnh, bao thuốc lá… Hành khách bị hỏi cặn kẽ về nhân thân và mục đích chuyến bay.

Trên chuyến bay tối đó, chỉ có nhà báo Như Phong và tôi là người nước ngoài, còn lại chỉ là những người Hồi giáo Pakistan. Đây là chuyến bay gây cho tôi một cảm giác mạnh nhất từ trước đến nay. “Một chuyến bay Hồi giáo”, tôi đã gọi chuyến bay ấy như thế. Trước đó, tôi không biết gì về người Hồi giáo. Moin Udin là người Hồi giáo đầu tiên tôi tiếp xúc. Nhưng đó là một người Hồi giáo làm ở Bộ Ngoại giao Pakistan. Ông mang cho tôi một cảm giác đơn giản. Còn những người Hồi giáo trên chuyến bay đó quả là rất Hồi giáo với râu tóc, quần áo và nói một thứ ngôn ngữ tôi không hề biết một từ vựng nào cả. Hơn nữa, một không khí của chiến tranh và sự bí ẩn từ cái nhìn của những người Hồi giáo xa lạ trên chuyến bay bủa vây và kích động cảm xúc của tôi.

Máy bay cất cánh muộn hơn so với giờ ghi trên vé. Chắc là vì việc kiểm tra của an ninh sân bay Bangkok quá lâu. Có những hành khách Hồi giáo cầu nguyện. Tôi không dám quan sát họ mà chỉ nhìn lướt qua họ như một sự vô tình. Và tôi phát hiện ra sự thành kính và bí ẩn trên gương mặt họ. Chính điều này làm tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi nhìn ra cửa sổ máy bay, chỉ thấy một bầu trời tối đen. Cảnh ấy không có gì xa lạ với tôi trong những chuyến bay đêm. Vì những chuyến bay của tôi đi Mỹ và Châu Âu thường bay đêm. Nhưng bầu trời đêm lúc này dựng lên một thế giới khác. Bởi nơi tôi đến là một vùng đất mà có thể ngay đêm đó một cuộc chiến tranh sẽ bùng nổ. Đó cũng là chuyến bay tôi không lấy sách ra đọc. Tôi muốn im lặng quan sát và cảm nhận không khí của một chuyến bay đặc biệt ở giữa những hành khách đặc biệt.

Một khu tị nạn của người Hồi giáo.

Một khu tị nạn của người Hồi giáo.

Từ khi bước vào phòng đợi, tôi đã cố tình chào hỏi với một vài hành khách Hồi giáo và mỉm cười với họ. Nhưng có lẽ sự bắt quen và nụ cười của tôi là những thứ xa lạ và khó giải thích nên họ chỉ nhìn tôi hoặc miễn cưỡng gật đầu chào lại hoặc không nói gì. Một số người khách quan sát chúng tôi với đầy vẻ cảnh giác. Có lẽ họ tự hỏi vì sao hai kẻ xa lạ này lại bay đến vùng đất mà mọi thứ khủng khiếp đang sắp ập tới. Từ sân bay Bangkok, nhà báo Như Phong bắt đầu bỏ cuốn Kinh Koran ra khỏi túi xách và ôm khư khư trên tay. Khi Như Phong tìm được ghế ngồi của mình trên máy bay, anh đã chỉ chỉ tay vào cuốn Kinh như giới thiệu với một hành khách Hồi giáo ở ghế bên cạnh. Ông ta gật gật đầu và nói một câu gì đó rồi cầm cuốn Kinh lên hôn. Như Phong bèn ôm lấy vai ông ta với những cử chỉ đầy cảm thông và chia sẻ. Nhưng chỉ ngay sau đó, vị hành khách Hồi giáo lại rơi vào im lặng cho đến hết cuộc hành trình.

Có lẽ chặng đường bay dài nhất trong tất cả các chuyến bay quốc tế mà tôi đã tham dự là chuyến bay từ Bangkok đi Lahore. Tôi đã từng xem phim và thấy những cảnh máy bay chở các nhóm biệt kích hoặc tình báo bay trong đêm, lặng lẽ đến một vùng rừng núi nào đó để thả các nhóm công tác đặc biệt xuống. Một sự căng thẳng và nặng nề kéo dài suốt chặng bay. Và trong chuyến bay đêm ấy, tôi đã mang đầy đủ cảm giác đó. Bởi có thể vô tình một quả tên lửa từ một tàu chiến nào đó của quân đội Mỹ sẽ lao thẳng vào chiếc máy bay có tôi trong đó. Đơn giản chỉ vậy. Và sau đó, tất cả sẽ được xóa sạch. Nếu như thế, đố ai tìm thấy tôi ở đâu. Tuy có lúc ý nghĩ đó vụt hiện trong óc tôi trong tiếng ù ù đều đặn của động cơ máy bay nhưng tôi không hề thấy sợ hãi hay ân hận về việc quyết định chuyến đi này. Thay vào đó là một cảm giác lạ kỳ đầy phấn khích. Tôi thấy cuộc sống thật kỳ vĩ. Nó chứa trong đó tất cả những câu chuyện mà ngồi một mình chúng ta cũng không thể sáng tạo hay bịa đặt được.

Máy bay hạ cánh xuống sân bay thành phố Lahore khoảng gần nửa đêm. Hoàn toàn khác với cảnh nhộn nhịp thường thấy ở các sân bay là một không khí vắng vẻ đầy căng thẳng. Sân bay Bangkok ngập tràn các cửa hàng miễn thuế và rực rỡ ánh đèn, còn sân bay Lahore đầy cảnh sát và quân đội. Một số boongke cát được dựng ngay trong sân bay. Những khẩu súng máy với những băng đạn lắp sẵn. Chúng tôi như lạc vào một ổ phục kích. Một đợt khám xét mới bắt đầu. Quanh chúng tôi có đến một chục nhân viên cảnh sát và quân đội với vẻ mặt căng thẳng và tay lăm lăm súng tiểu liên. Khi vừa mở túi xách của nhà báo Như Phong thì cuốn Kinh Koran hiện ra. Viên cảnh sát súng ống đầy người vội nâng cuốn Kinh bằng hai tay và cúi xuống hôn như một nghi lễ đầy vẻ sùng tín. Rồi anh ta đặt cẩn thận cuốn Kinh sang một bên và bắt đầu lục soát hành lý của chúng tôi. Trước khi để cho chúng tôi nhập cảnh, viên cảnh sát nói với chúng tôi không được để cuốn Kinh trong túi xách như thế mà phải ôm vào ngực. Viên cảnh sát vừa nói vừa làm động tác như hướng dẫn chúng tôi.

Lahore chỉ là nơi chúng tôi nhập cảnh và chúng tôi sẽ trở lại sân bay này vào sáng mai để bay đi Islamabad, thủ đô Pakistan. Vì không có khách sạn ở sân bay, chúng tôi phải vào thành phố nghỉ qua đêm. Khi chúng tôi ra khỏi phòng khám xét và làm thủ tục thì sân bay Lahore như chẳng còn hành khách nào nữa. Chỉ còn lại hai ba chiếc taxi tróc sơn nham nhở như cố gắng đợi những hành khách cuối cùng là chúng tôi. Những người lái taxi quây lấy chúng tôi và hỏi chúng tôi bằng một thứ tiếng Anh rất khó nghe. Cuối cùng, một chiếc taxi với hai tài xế đưa chúng tôi rời sân bay. Đó là một chiếc taxi bẩn thỉu, ọp ẹp và đầy mùi thuốc lá. Họ nói sẽ đưa chúng tôi đến một khách sạn gần đó. Họ dựng ngón tay cái lên làm hiệu cho chúng tôi hiểu rằng đó là một khách sạn tuyệt vời. Chúng tôi chỉ còn biết đi theo họ. Chúng tôi không biết gì về thành phố này. Bởi thế, chúng tôi không có một lựa chọn nào khác.

Lahore tối tăm vì quá ít đèn đường. Chiếc xe chạy loanh quanh qua nhiều khu phố vắng lặng rồi cuối cùng đưa chúng tôi vào một ngõ sâu và dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng xấu xí và cũ kỹ. Đó chính là một khách sạn ghi rõ bên ngoài: Khách sạn quốc tế ba sao. Những người lái xe và một nhân viên khách sạn bàn tán gì đó rất lâu. Tôi tranh thủ đi loanh quanh trước cửa khách sạn để quan sát nơi vừa đến. Biết rằng chúng tôi sẽ có một đêm khó khăn trong cái khách sạn ba sao kỳ dị kia nhưng tôi thấy vô cùng cảm hứng. Với tôi, một đêm ngủ ở khách sạn năm sao ở Brisbane, Australia năm 1992 làm cho tôi luôn mang cảm giác quần áo mình rất bẩn và cái khách sạn ba sao ở Lahore mang cảm giác cái gì ở khách sạn này cũng làm cho tôi dính bẩn đều kích thích tính tò mò của tôi như nhau. Trong những chuyến đi như thế này, sự khám phá những điều mới mẻ, khác lạ là hứng thú chủ đạo trong tôi.

Người lái xe và chiếc xe taxi.

Người lái xe và chiếc xe taxi.

Sau khi bàn bạc khá lâu với nhau, người lái xe taxi nói chúng tôi sẽ ở chung một phòng và giá mỗi chúng tôi phải trả là 70 USD. Nếu lúc đó, họ bắt chúng tôi phải trả 200 USD mỗi người thì chúng tôi cũng phải trả. Vì chúng tôi biết đi đâu trong cái thành phố xa lạ, vắng vẻ, khuya khoắt và không một người quen này. Trước khi bỏ chúng tôi lại với cái khách sạn ba sao kỳ dị này, người lái taxi hỏi chúng tôi có muốn họ đón chúng tôi ra sân bay vào 5 giờ sáng mai không. Đương nhiên chúng tôi phải gật đầu đồng ý. Thực sự, cho đến lúc đó, người mà chúng tôi cần bám chặt ở cái chốn xa lạ này lại chính là người lái xe taxi. Ông ta bỗng trở thành người thân của chúng tôi. Tôi lấy thuốc lá mời ông. Ông bắt tay tôi rất chặt và dặn chúng tôi không được đi ra khỏi khách sạn trong đêm. Ông ta đưa tay lên làm động tác soẹt ngang cổ họng và lè lưỡi ngoẹo đầu sang một bên. Tôi không nghĩ có chuyện gì xấu xảy ra. Nhưng động tác của người lái taxi đã đẩy không khí u uẩn và bí hiểm của cái khách sạn ba sao ấy vào sâu hơn bóng tối của đêm đang phủ quanh nó.

Khi nhận phòng, tôi thực sự choáng váng. Một căn phòng tồi tệ mà tôi chưa gặp ở bất cứ loại khách sạn nào. Những chiếc gối màu tối, ga giường nhợt nhạt, tường loang lổ vết ố, cửa kính bị vỡ, một chiếc quạt trần loạng choạng quay, bồn rửa mặt cũ kỹ và xám… Nhưng chúng tôi vẫn phải chuẩn bị cho giấc ngủ sau chặng bay không dài nhưng nhiều ám ảnh. Lúc đó, chúng tôi mới sực nhớ đồ dùng cá nhân như khăn tắm, bàn chải và thuốc đánh răng đã để tất cả trong vali gửi ở sân bay quá cảnh. Chúng tôi hỏi nhân viên khách sạn rằng họ có thể mua giúp chúng tôi bàn chải và thuốc đánh răng không. Chúng tôi rất cần những thứ đó vì sau chặng bay, miệng chúng tôi cảm như khó thở. Người nhân viên khách sạn gật đầu và bỏ đi. Nửa tiếng sau ông mang về cho chúng tôi hai chiếc bàn chải và một hộp kem. Hai chiếc bàn chải không bao bì và hình như đã được dùng. Nhưng dù mang cảm giác ghê ghê thì chúng tôi vẫn phải sử dụng. Trước khi đánh răng, chúng tôi phải đánh sạch chiếc bàn chải bằng một cục xà phòng trong toilet nhỏ như một chiếc kẹo ngậm.

Chúng tôi không ngủ được dù rất mệt. Nhà báo Như Phong quyết định tắt quạt trần vì ông cảm thấy nếu nó chỉ quay thêm một chút nữa thì mỗi cánh sẽ văng ra một nơi. Bởi thế căn phòng càng thêm ngột ngạt và bầy muỗi tràn vào. Tôi ngồi thu lu ở góc giường hút thuốc và quan sát một góc khách sạn qua cửa sổ. Đêm ở Lahore vắng lặng lạ thường. Lúc đó chúng tôi lại thấy cần tiếng gầm rú như điên như khùng của các loại xe máy ở Hà Nội. Và thi thoảng, một cái đầu tóc rối bù và gương mặt đầy râu của nhân viên bảo vệ khách sạn lại thò vào nhìn chúng tôi. Tôi hỏi anh ta có việc gì không. Anh ta nói với tôi bằng một tràng tiếng mẹ đẻ của anh. Tôi không hiểu gì. Nhà báo Như Phong để cả quần áo mặc từ Hà Nội mà nằm và ôm khư khư chiếc máy ảnh mà Báo An ninh Thế giới mua cho chuyến đi của chúng tôi với giá ngày đó là 2.500 USD và chiếc vi tính xách tay. Nếu một trong hai thứ này bị mất thì chuyến đi của chúng tôi chẳng còn tác dụng gì nữa.

Một đêm mất ngủ đầy ấn tượng. 5 giờ sáng, chiếc taxi đã chở chúng tôi từ sân bay về khách sạn đã đến và đưa chúng tôi trở lại sân bay Lahore. Trên đường ra sân bay, người lái taxi hỏi tôi có phải là Hồi giáo không. Tôi trả lời tôi là một người Hồi giáo Việt Nam. Nhà báo Như Phong bèn lấy cuốn Kinh Koran đưa cho hai người lái taxi xem. Một người cầm lấy và cúi xuống hôn. Khi chia tay họ, dù đã bị bắt chẹt giá trong cả hai lượt đi, chúng tôi vẫn lấy một tờ 5 USD cho họ. Họ ôm lấy chúng tôi và nói: “Cẩn thận nhé, người anh em. Thánh Ala phù hộ cho người anh em”.

Trong khu vực làm thủ tục, chúng tôi lại bị khám xét vô cùng kỹ lưỡng. Như Phong lại mang cuốn Kinh Koran ra. Ngay lập tức, cái người với bộ mặt lạnh, bí ẩn và đầy vũ khí quanh người lại cúi xuống hôn cuốn Kinh. Rồi lại nở nụ cười và xin thánh Ala phù hộ cho chúng tôi.

(Còn tiếp)

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top