Vốn tài chính (cổ phiếu, trái phiếu hoặc tiền giấy…) đóng một vai trò quan trọng, tạo điều kiện cho các loại vốn khác được sở hữu và kinh doanh. Nhưng bản thân nó không có giá trị thực mà chỉ là đại diện cho các vốn tài nguyên, con người, xã hội hoặc vốn sản xuất.
Nguồn vốn tài chính bao gồm hai loại: nguồn vốn trong nước (vốn NSNN, vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước, vốn đầu tư của các DNNN, vốn tư nhân) và nguồn vốn nước ngoài (FDI, ODA, vốn tín dụng từ ngân hàng TMQT, Thị trường vốn quốc tế).
Hiện nay ở nước ta, nhu cầu tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm 2021 - 2025 khoảng 32 - 34% GDP. Tuy nhiên tỉ trọng vốn đầu tư công bình quân 5 năm chỉ chiếm khoảng 16 - 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Ngoài ra, các doanh nghiệp hiện nay cũng thiếu hụt dòng vốn. Kết quả nghiên cứu cho thấy có tới gần 50% số doanh nghiệp được hỏi cho biết họ gặp khó khăn trong tiếp cận vốn. Thậm chí, để giải quyết thiếu hụt vốn, 4% doanh nghiệp được hỏi đã buộc phải tìm đến tín dụng phi chính thức…
Chiến lược tài chính đến năm 2030 đã xác định mục tiêu: Xây dựng nền tài chính quốc gia phát triển bền vững, hiện đại và xây dựng các chính sách huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính hướng tới thực hiện nhiệm vụ của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030. Trong đó, nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển đồng bộ, minh bạch và bền vững thị trường tài chính và dịch vụ tài chính.
Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam đã được hình thành về cơ bản, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc huy động tiết kiệm và phân bổ các nguồn vốn. Thị trường tài chính cũng đã có những bước phát triển vượt bậc về cả chất và lượng, bảo đảm tốt chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng cho khu vực doanh nghiệp, đồng thời phục vụ hiệu quả tái cấu trúc nền kinh tế.
Cả ba thị trường ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, các sản phẩm dịch vụ tài chính phát triển nhanh, xuất hiện nhiều sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của các tệp khách hàng khác nhau.
Thống kê cho thấy, quy mô của thị trường vốn Việt Nam tăng trưởng bình quân 28,5%/năm giai đoạn 2016 - 2021. Tính đến cuối quý I/2022, quy mô thị trường vốn đạt 134,570% GDP năm 2021, gấp 3,5 lần quy mô năm 2015, trong đó quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu tương đương 93,8% GDP; quy mô thị trường trái phiếu đạt 40,7% GDP, trong đó trái phiếu Chính phủ là 22,7% GDP và trái phiếu doanh nghiệp là 16,4%GDP.
Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn chưa phát triển tương xứng so với tiềm năng, chưa hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế với nhiều ứng dụng công nghệ mới. Thị trường tài chính với các sản phẩm có tính thanh khoản cao, thỏa mãn nhu cầu ngắn hạn thường xuyên của người dân.
Mặc dù vậy, với thuộc tính cố hữu của con người “lòng tham không có giới hạn” (sách Xây dựng “Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, và vì dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật - tháng 12/2021) nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro (cờ bạc, rửa tiền, chiếm đoạt tài sản, thao túng thị trường, giao dịch nội gián, trục lợi bảo hiểm, tham nhũng, gian lận...).
Chúng ta có thể nêu 4 vấn đề bất cập cụ thể:
Thứ nhất, chức năng xác định giá cả sản phẩm, dịch vụ: Quan hệ giữa lĩnh vực bất động sản và lĩnh vực tài chính rất chặt chẽ và có tính chất hữu cơ. Việc xây dựng chỉ số giá bất động sản là hết sức cần thiết vì giá bất động sản được sử dụng như một trong những chỉ tiêu ổn định hệ thống tài chính và chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định chính sách tiền tệ.
Nền kinh tế hiện nay đang tồn tại cơ chế hai giá đất. Một giá đất theo khung Nhà nước ban hành. Một giá đất khác do các thành phần của nền kinh tế trong thị trường thực thi thỏa thuận – gọi là giá thị trường. Khoảng chênh lệch giữa 2 giá đất càng lớn, càng gây nhiều bất công xã hội và được cho là chưa có sự hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và doanh nghiệp cũng như làm méo mó thị trường bất động sản gây nhiều tiềm ẩn rủi ro cho cả nền kinh tế. Ngoài ra, sự bất cập này, trong bối cảnh chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn còn nhiều khác biệt, chưa theo kịp với chuẩn mực kế toán quốc tế…, sẽ tạo kẽ hở để một số tổ chức lợi dụng hạch toán sai bản chất giao dịch…
Thứ hai, đối với thị trường ngân hàng, quá trình xử lý nợ xấu tại các Tổ chức tín dụng còn nhiều khó khăn vướng mắc chưa được giải quyết, chủ yếu liên quan đến xử lý tài sản đảm bảo. Vấn đề này đang ngày càng nghiêm trọng khi xu thế một số doanh nghiệp thay vì huy động vốn sở hữu, đã ngày càng dựa vào việc huy động vốn vay của các tổ chức tín dụng bằng các hình thức thiếu minh bạch, phi thị trường, phát hành cổ phiếu và trái phiếu gian lận…
Thứ ba, cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng chúng ta lại bị tụt hậu nhiều về chất lượng sống ở khu vực thành thị cũng như nông thôn. Các vấn đề về thất nghiệp, nhà ở thiếu thốn, chất lượng y tế và môi trường kém, tội phạm, nghèo đói, tắc nghẽn giao thông... đã gây khó khăn cho người dân thành thị cũng như các cấp chính quyền.
Hệ thống tín dụng thiếu chuyên nghiệp cùng với các yêu cầu nghiêm ngặt thiếu thực tế đối với các khoản vay đã khiến các doanh nghiệp SME, MSME và đặc biệt là các hộ gia đình có thu nhập thấp bị loại khỏi mạng lưới cung cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại một cách có hệ thống.
Nhiều cuộc khảo sát cho thấy các ngân hàng yêu cầu người vay phải có việc làm trong khu vực chính thức, với việc làm "ổn định" và thu nhập ở mức "tương xứng", trong khi đa số các hộ gia đình được khảo sát đều có việc làm ở khu vực phi chính thức hoặc tạm thời trong công trường và khu công nghiệp.
Điều này khiến thu nhập của họ rất thất thường và không chắc chắn. Các ngân hàng yêu cầu chỉ những người đi vay có giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất hợp lệ mới đủ điều kiện vay vốn nhưng hầu hết các hộ gia đình thu nhập thấp ở thuê nhà và không sở hữu đất.
Họ sở hữu rất ít tài sản và số tiền tiết kiệm của họ không đủ để làm tài sản thế chấp…Việc thiếu khả năng tiếp cận ngân hàng đã dẫn đến việc các doanh nghiệp SME, MSME và các hộ gia đình chuyển sang thị trường tín dụng phi chính thức hoặc tín dụng đen để thỏa mãn nhu cầu của họ.
Thứ tư, quy mô thị trường tài chính phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, hạn chế khả năng phát triển và hội nhập quốc tế trong bối cảnh tài chính số, tài chính chia sẻ, tài chính xanh… đang phát triển mạnh mẽ.
Tính đến cuối năm 2020, tổng tài sản của các định chế tài chính Việt Nam tương đương 219% GDP, thấp hơn so với 320% GDP của bình quân nhóm 5 quốc gia hàng đầu ASEAN; Vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 84% GDP, thấp hơn các thị trường cổ phiếu trong khu vực (từ 93 - 243% GDP, ngoại trừ Indonesia); Dư nợ thị trường trái phiếu đạt 44,7% GDP, còn nhỏ so với thị trường cổ phiếu và một số thị trường trái phiếu trong khu vực. Trong đó, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt 14,5% GDP, chỉ bằng khoảng 1/2 bình quân các thị trường trái phiếu doanh nghiệp châu Á (25,8% GDP).
Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém.
Để thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo trên, theo các nhà kinh tế, đối với thị trường tài chính cần tập trung vào 4 lĩnh vực cấp bách sau:
Xây dựng một thể chế đồng bộ cho thị trường tài chính đảm bảo sự hình thành giá các tài sản tài chính thông qua cơ chế thị trường công khai, minh bạch. Thị trường tài chính phải định giá khách quan và chính xác để tạo tính thanh khoản cho tất cả các nguồn lực khác như vốn sản xuất, con người, xã hội và tài nguyên nhằm huy động tổng lực các nguồn vốn vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, trước mắt cần tích hợp với việc sửa đổi Luật đất đai sắp tới để có sự thống nhất cơ chế chính sách một giá đất đảm bảo công bằng và sự phát triển bền vững kinh tế xax hội.
Công tác giám sát cần được nâng cao hiệu quả với ba nội dung trọng yếu: giám sát rủi ro hệ thống, tăng cường phối hợp giữa cơ quan hoạch định chính sách và cơ quan giám sát; phối hợp, đồng bộ hóa giám sát thận trọng vĩ mô và vi mô. Ngoài ra, chất lượng công tác thanh tra được nâng cao theo hướng từng bước thiết lập kỷ luật thị trường, cưỡng chế thực thi các quy định pháp lý, nâng cao chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm trên thị trường tài chính (rửa tiền, chiếm đoạt tài sản, thao túng thị trường, giao dịch nội gián, trục lợi bảo hiểm...).
Hệ thống các tổ chức tín dụng cần được cơ cấu lại gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống.
Thị trường tín dụng phi chính thức (bao gồm cả tín dụng đen) là một thực tế khách quan trong thị trường tài chính. Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao các doanh nghiệp SME, MSME và đặc biệt là các hộ gia đình có thu nhập thấp sử dụng tín dụng phi chính thức cho nhu cầu đầu tư của họ? Vì họ không đủ điều kiện để được cấp tín dụng chính thức? Hay là vì tín dụng phi chính thức là sự lựa chọn khả thi đối với điều kiện kinh tế xã hội và vị trí của họ? Hay nó là sự kết hợp của cả hai?
Sự nhận thức và nghiên cứu thấu đáo của các nhà hoạch định chính sách tài chính tín dụng vi mô về các vấn đề trên sẽ giúp tìm được một nền tảng trung gian để kênh dẫn vốn và sử dụng vốn ngày một toàn diện góp phần xây dựng một xã hội bền vững.
Ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Theo đó, sẽ có một số xu hướng phát triển thị trường tài chính trên thế giới trong thời gian tới chi phối đến thị trường tài chính của từng quốc gia.
Điều này đã đặt ra yêu cầu định hướng phát triển thị trường tài chính và cộng đồng doanh nghiệp giai đoạn 2021 - 2030 theo hướng bền vững, cạnh tranh lành mạnh, hiện đại, xây dựng cơ cấu hợp lý giữa thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị trường bảo hiểm trong nước, từng bước kết nối với thị trường tài chính quốc tế, đảm bảo huy động các nguồn lực tài chính cả trong và ngoài nước để thực hiện tốt các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế./.