Số hàng bị cướp giật có giá 45.000 đồng.
Sau đó, hai em bị bắt và tạm giam 8 tháng 20 ngày. Khi ra tòa, các em khai rằng vì quá đói nên mới thực hiện hành vi, không biết là phạm tội, rồi nước mắt ngắn nước mắt dài xin Tòa giảm nhẹ hình phạt để được tiếp tục đi học. Thế nhưng các em vẫn bị tuyên án.
Đấy, pháp luật nước mình nghiêm đến như thế!
Nay đến việc chủ đầu tư chiếm dụng, sử dụng trái pháp luật kinh phí bảo trì phần sở hữu chung của nhà chung cư, nếu tính trên cả nước là hàng trăm vụ với số tiền hàng ngàn tỷ đồng, vậy mà hết khiếu nại này đến khiếu nại khác, hết văn bản trình lên lại đến văn bản gửi xuống... mà không ai coi đấy là một hành vi phạm tội(!?).
Phải khẳng định rằng, đứng về bản chất sở hữu, số kinh phí này không thuộc về chủ đầu tư mà là đồng sở hữu của tất cả các chủ sở hữu chung cư ấy. Không phải là sở hữu của mình, lại lợi dụng để hưởng lợi phi pháp trước thanh thiên bạch nhật, hành vi ấy nếu nói nhẹ là chiếm dụng, còn nói nặng thì chính là... cướp ngày!
Không biết Bộ Công an sau khi nhận được ý kiến của Bộ xây dựng thì sẽ phản hồi như thế nào, nhưng thiết nghĩ, khoảng cách này rất cần phải xóa bỏ!
Cứ nghĩ 2% là nhỏ nhưng thực chất, con số này là rất lớn. Ta lấy ví dụ như sự việc 5 năm đòi phí bảo trì của các cư dân Chung cư Keangnam (Hà Nội). Được xây dựng từ năm 2008 đến năm 2011 đưa vào sử dụng, với 922 căn hộ cao cấp, giá bán trung bình 60 triệu đồng/m2 nên quỹ bảo trì chung cư Keangnam theo ước tính của BQT khoảng 160 tỷ đồng (phía chủ đầu tư Keangnam thông báo chỉ là 125 tỷ đồng).
Thôi thì chỉ tính 125 tỷ đồng, nếu đem gửi ngân hàng với lãi suất thời điểm đó có lúc lên đến 13-15% một năm, vậy 5 năm kia, chủ đầu tư đã “cướp” không của cư dân ở đây bao nhiêu tiền? Sơ ra đã 60 - 70 tỷ đồng!
So với vụ án “cướp bánh mì” đã nêu ở trên, một bên 45.000 đồng và một bên là 60 - 70 tỷ đồng; một bên là vị thành niên và một bên là những người dày dạn trong hiểu biết pháp luật; một bên là tù tội, còn một bên thì mặc nhiên tồn tại... mới thấy kẽ hở trong khoảng cách pháp lý của nước mình nó “khủng” đến mức nào?
Không biết Bộ Công an sau khi nhận được ý kiến của Bộ xây dựng thì sẽ phản hồi như thế nào, nhưng thiết nghĩ, khoảng cách này rất cần phải xóa bỏ!
Trích Nghị định 71/2010/NĐ-CP: Điều 51. Kinh phí bảo trì phần sở hữu chung của nhà chung cư có nhiều chủ sở hữu 1. Kinh phí bảo trì phần sở hữu chung của nhà chung cư có nhiều chủ sở hữu được quy định như sau: a) Trường hợp chủ đầu tư ký hợp đồng bán căn hộ kể từ ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành thì chủ đầu tư có trách nhiệm nộp các khoản kinh phí sau đây: - Đối với diện tích nhà bán thì phải nộp 2% tiền bán, khoản tiền này được tính vào tiền bán căn hộ hoặc diện tích khác mà người mua phải trả và được quy định rõ trong hợp đồng mua bán; - Đối với phần diện tích nhà mà chủ đầu tư giữ lại, không bán (không tính phần diện tích thuộc sử dụng chung) thì chủ đầu tư phải nộp 2% giá trị của phần diện tích đó; phần giá trị này được tính theo giá bán căn hộ có giá cao nhất của nhà chung cư đó. b) Khoản kinh phí quy định tại điểm a khoản này được trích trước thuế để nộp (Nhà nước không thu thuế đối với khoản kinh phí này) và được gửi vào ngân hàng thương mại do Ban quản trị nhà chung cư quản lý để phục vụ cho công tác bảo trì phần sở hữu chung theo quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư; c) Trường hợp chủ đầu tư ký hợp đồng bán căn hộ trước ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành mà chủ đầu tư chưa thu 2% tiền bán thì các chủ sở hữu căn hộ chung cư có trách nhiệm đóng góp khoản kinh phí để bảo trì phần sở hữu chung. Kinh phí đóng góp chỉ được thu khi phát sinh công tác bảo trì và được xác định đối với từng công việc bảo trì cụ thể. 2. Trường hợp kinh phí bảo trì quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này không đủ để thực hiện bảo trì phần sở hữu chung thì các chủ sở hữu nhà chung cư có trách nhiệm đóng góp thêm kinh phí tương ứng với phần diện tích thuộc sở hữu riêng của từng chủ sở hữu. Trong trường hợp nhà chung cư phải phá dỡ mà kinh phí bảo trì quy định tại khoản 1 Điều này chưa sử dụng hết thì được sử dụng để hỗ trợ tái định cư khi xây dựng lại nhà chung cư hoặc đưa vào quỹ bảo trì nhà chung cư sau khi xây dựng lại. |
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định, hướng dẫn tại Điều 175 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, cụ thể như sau: 1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
|