Room tín dụng từng là cần thiết, nhưng đã đến lúc gỡ bỏ để xây dựng một thị trường tín dụng minh bạch, hiệu quả

Room tín dụng từng là cần thiết, nhưng đã đến lúc gỡ bỏ để xây dựng một thị trường tín dụng minh bạch, hiệu quả

Hà Thương (Thực hiện)
Hà Thương (Thực hiện) ngthuongreatimes@gmail.com
Thứ Hai, 14/07/2025 - 06:27

Suốt nhiều năm qua, room tín dụng được xem là công cụ quản lý hành chính của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống. Trong bối cảnh nền kinh tế đối mặt với áp lực lạm phát, tỷ giá, nợ xấu, cơ chế này từng phát huy hiệu quả nhất định, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

Tuy nhiên, khi nền kinh tế đang bước vào giai đoạn phục hồi với yêu cầu khơi thông dòng vốn mạnh mẽ hơn, room tín dụng lại dần trở thành rào cản, gây méo mó dòng chảy của vốn và làm suy giảm động lực cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng.

Trước thực tế đó, tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương ngày 3/7/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu NHNN khẩn trương gỡ bỏ công cụ hành chính trong điều hành tăng trưởng tín dụng. Cụ thể là chấm dứt việc giao chỉ tiêu (room) tín dụng cho từng ngân hàng thương mại và thay vào đó là cơ chế thị trường với bộ tiêu chí kiểm soát an toàn tín dụng rõ ràng.

Động thái này được đánh giá là một bước ngoặt lớn trong tư duy điều hành chính sách tiền tệ, kỳ vọng sẽ mở ra chương mới cho thị trường tài chính - ngân hàng Việt Nam, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và khơi thông dòng vốn hiệu quả hơn cho nền kinh tế.

Để làm rõ hơn những kỳ vọng, thách thức và yêu cầu kỹ thuật trong quá trình chuyển đổi, Reatimes đã có cuộc trao đổi chuyên sâu với PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân, chuyên gia kinh tế, giảng viên Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

Room tín dụng đang trở thành lực cản của thị trường

PV: Thưa ông, ông nhìn nhận thế nào về chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong việc yêu cầu chấm dứt cơ chế room tín dụng trong bối cảnh hiện nay?

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân: Thứ nhất, đây là một tín hiệu rõ ràng về việc chuyển từ cơ chế quản lý hành chính sang cơ chế thị trường.

Trong nhiều năm qua, việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng trần tín dụng để kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã góp phần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế chịu nhiều áp lực về lạm phát, tỷ giá và rủi ro nợ xấu. Việc kiểm soát chặt chẽ lượng tín dụng bơm ra thị trường thông qua cơ chế room đã giúp hạn chế tình trạng tín dụng tăng nóng, từ đó giữ được sự ổn định chung.

Đối với một nền kinh tế đang trong quá trình hoàn thiện khung khổ pháp lý, khi năng lực quản trị rủi ro của nhiều ngân hàng còn hạn chế, cơ chế trần tín dụng còn đóng vai trò như một "hàng rào an toàn" để kiểm soát rủi ro mang tính hệ thống.

Tuy vậy, theo thời gian, cơ chế này cũng bộc lộ không ít bất cập. Việc phân bổ tín dụng theo room có thể làm méo mó dòng chảy vốn, dẫn đến tình trạng xin - cho, làm suy giảm động lực cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. Đồng thời, vào những thời điểm "cạn room", chi phí vay vốn có thể tăng vọt một cách bất thường, gây khó khăn cho doanh nghiệp và người dân.

Room tín dụng từng là cần thiết, nhưng đã đến lúc gỡ bỏ để xây dựng một thị trường tín dụng minh bạch, hiệu quả- Ảnh 1.

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân, chuyên gia kinh tế, giảng viên Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

Thứ hai, việc chuyển sang cơ chế thị trường với một bộ tiêu chí an toàn tín dụng rõ ràng sẽ giúp hệ thống ngân hàng trở nên chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, đồng thời nâng cao vai trò quản trị rủi ro, chất lượng tín dụng và năng lực tự giám sát của từng tổ chức tín dụng. Những ngân hàng có năng lực tài chính vững vàng, quản trị rủi ro hiệu quả sẽ được tạo điều kiện mở rộng tín dụng nhiều hơn, thay vì phải chờ phân bổ room như trước đây. Cơ chế này sẽ thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các ngân hàng nâng cao chuẩn mực hoạt động, tiến gần hơn tới các thông lệ quốc tế.

Đồng thời, đây cũng là bước đi thể hiện rõ quyết tâm hội nhập sâu rộng hơn với thế giới, đưa chính sách tiền tệ của Việt Nam tiệm cận dần các chuẩn mực quốc tế, cả về phương thức điều hành lẫn các tiêu chí đánh giá an toàn hệ thống. Thay vì dựa vào các biện pháp mang tính "đóng khung", chúng ta đang tiến tới mô hình quản trị rủi ro linh hoạt, lấy thị trường làm nền tảng, nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát chủ động các nguy cơ có thể phát sinh.

Thứ ba, xét ở góc độ vĩ mô, quyết định này cho thấy rõ nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ trong việc tháo gỡ các "nút thắt" về vốn cho nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng đang đối mặt với nhiều thách thức, cầu tín dụng yếu và nhiều doanh nghiệp thiếu vốn để phục hồi sản xuất kinh doanh. Khi các ngân hàng được trao quyền linh hoạt hơn trong việc cấp tín dụng, nhưng vẫn tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chí an toàn, dòng vốn sẽ được phân bổ hiệu quả hơn tới những lĩnh vực ưu tiên, từ đó góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.

PV: Vậy có thể nói việc nới lỏng công cụ hành chính này là bắt nguồn từ những "nghẽn tắc" trong điều hành tín dụng thời gian qua?

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân: Có thể khẳng định rằng, quyết định tiến tới bãi bỏ cơ chế room tín dụng xuất phát trực tiếp từ những bất cập đã kéo dài trong điều hành tín dụng suốt nhiều năm qua.

Một ví dụ rất điển hình là vào năm 2022, nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực then chốt như sản xuất, xuất khẩu, bất động sản gặp vô vàn khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, mặc dù khi đó mặt bằng lãi suất đã liên tục được điều chỉnh giảm. Nguyên nhân sâu xa là bởi các ngân hàng thương mại đã sử dụng hết room tín dụng được phân bổ từ đầu năm. Kết quả là, dù doanh nghiệp có nhu cầu thực và đủ điều kiện vay, họ vẫn không thể tiếp cận được vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Thậm chí, có những trường hợp khách hàng đã hoàn tất hồ sơ, ký hợp đồng tín dụng đầy đủ, nhưng đến phút cuối, ngân hàng lại phải tạm dừng giải ngân vì chờ được phân bổ thêm "room". Điều này không chỉ gây lãng phí thời gian và nguồn lực, mà còn ảnh hưởng dây chuyền tới cả chuỗi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế.

Không chỉ doanh nghiệp, ngay cả các ngân hàng cũng chịu nhiều áp lực. Nhiều tổ chức tín dụng có năng lực tài chính tốt, hệ số an toàn cao, khả năng quản trị rủi ro hiệu quả, hoàn toàn có điều kiện để mở rộng tín dụng, song lại bị "gò bó" trong hạn mức cấp phép, làm giảm sự chủ động trong chiến lược kinh doanh và phân bổ vốn của họ.

Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới những hệ lụy từ cơ chế xin - cho room tín dụng. Việc phân bổ chỉ tiêu theo hình thức này khiến một số ngân hàng phải chạy vạy giữa năm để xin thêm room, gây ra những nghi ngại về tính minh bạch, công bằng trong toàn hệ thống. Doanh nghiệp vì thế cũng phải "đi vòng", tìm đến những ngân hàng còn dư room để vay vốn, khiến chi phí giao dịch bị đội lên, mất thêm thời gian và công sức.

Chính vì vậy, việc chuyển sang cơ chế thị trường với bộ tiêu chí kiểm soát tín dụng rõ ràng, minh bạch là xu hướng tất yếu để tháo gỡ điểm nghẽn về vốn cho nền kinh tế. Tôi cho rằng đây là một quyết định rất đúng đắn, phản ánh thực tiễn điều hành, đồng thời phù hợp với nhu cầu phát triển bền vững của cả hệ thống tài chính - ngân hàng.

Cần thiết xếp hạng, phân loại ngân hàng theo mức độ rủi ro để điều tiết phù hợp

PV: Thay vì áp room, Chính phủ yêu cầu NHNN áp dụng bộ tiêu chí kiểm soát an toàn tín dụng. Theo ông, bộ tiêu chí này cần bao gồm những yếu tố nào để vừa đảm bảo an toàn hệ thống, vừa khơi thông dòng vốn?

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân: Tôi cho rằng, để thay thế hiệu quả cơ chế room, bộ tiêu chí kiểm soát an toàn tín dụng mà NHNN xây dựng cần đảm bảo rõ ràng, minh bạch, bám sát thông lệ quốc tế nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với đặc thù và thực tiễn hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Trước hết, trọng tâm phải đặt vào năng lực tài chính và khả năng quản trị rủi ro của từng tổ chức tín dụng. Những chỉ số then chốt như tỷ lệ an toàn vốn (CAR), chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu, mức độ trích lập dự phòng rủi ro và khả năng thanh khoản là các yếu tố không thể thiếu. Những ngân hàng có hệ số an toàn cao, kiểm soát tốt nợ xấu và có hệ thống quản trị rủi ro bài bản cần được trao quyền tự chủ lớn hơn trong hoạt động cho vay.

Ngoài ra, cần xét đến năng lực quản trị điều hành và hệ thống kiểm soát nội bộ, khả năng nhận diện, đo lường và quản lý rủi ro tín dụng của từng tổ chức tín dụng. Bộ tiêu chí cũng nên tính tới mức độ minh bạch thông tin, khả năng đáp ứng các chuẩn mực về báo cáo, kiểm toán, cũng như năng lực công nghệ trong giám sát, kiểm soát các hoạt động tín dụng.

Ngoài ra, không thể bỏ qua yếu tố định hướng dòng vốn. Bộ tiêu chí cần khuyến khích tín dụng chảy vào các lĩnh vực ưu tiên như sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế xanh… đồng thời kiểm soát chặt dòng vốn vào những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như bất động sản hay chứng khoán khi có dấu hiệu tăng trưởng nóng.

Đặc biệt, để tránh lặp lại những tắc nghẽn cũ, bộ tiêu chí phải được áp dụng công khai, minh bạch và đồng nhất, hạn chế tối đa các yếu tố cảm tính hoặc xin - cho. Điều này không chỉ tạo sự công bằng cho các ngân hàng, mà còn nâng cao niềm tin thị trường, khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế.

Room tín dụng từng là cần thiết, nhưng đã đến lúc gỡ bỏ để xây dựng một thị trường tín dụng minh bạch, hiệu quả- Ảnh 2.

Để thay thế hiệu quả cơ chế "room", bộ tiêu chí kiểm soát an toàn tín dụng mà NHNN xây dựng cần đảm bảo rõ ràng, minh bạch, bám sát thông lệ quốc tế nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với đặc thù và thực tiễn hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

PV: Liệu các ngân hàng có đủ năng lực tự đánh giá và điều tiết tín dụng nếu không còn trần kiểm soát từ NHNN? Và có cần xếp hạng rủi ro ngân hàng theo từng nhóm hay không, thưa ông?

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân: Đây là một câu hỏi rất xác đáng, bởi năng lực tự đánh giá và điều tiết tín dụng của từng ngân hàng chính là yếu tố then chốt quyết định sự thành công khi chuyển sang cơ chế không còn áp dụng room tín dụng.

Thực tế, trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, năng lực quản trị rủi ro và điều tiết tín dụng giữa các ngân hàng là rất khác nhau. Các ngân hàng lớn, có vốn mạnh, áp dụng công nghệ hiện đại và đã quen với các chuẩn mực quốc tế như Basel II, Basel III, thường có khả năng tự đánh giá rủi ro, kiểm soát tăng trưởng tín dụng và đảm bảo an toàn hệ thống tốt hơn.

Tuy nhiên, không phải tất cả các ngân hàng đều đạt được trình độ này. Một số ngân hàng nhỏ, hoặc có tiềm lực tài chính, quản trị rủi ro còn hạn chế, nếu thiếu sự kiểm soát chặt chẽ từ phía cơ quan quản lý, có thể đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng quá mức, làm gia tăng nguy cơ nợ xấu và rủi ro hệ thống.

Chính vì vậy, tôi cho rằng việc xếp hạng rủi ro các ngân hàng thành từng nhóm là hoàn toàn cần thiết. Việc phân nhóm này nên dựa trên những tiêu chí khách quan như tỷ lệ an toàn vốn, chất lượng tài sản, năng lực quản trị rủi ro, kết quả kiểm toán độc lập và các chỉ số tài chính chủ chốt. Các ngân hàng thuộc nhóm an toàn, có năng lực quản trị tốt có thể được trao quyền tự chủ tín dụng lớn hơn. Ngược lại, các ngân hàng thuộc nhóm có rủi ro cao cần tiếp tục được giám sát chặt, thậm chí vẫn phải áp dụng hạn mức tín dụng hoặc các biện pháp can thiệp cụ thể.

Bên cạnh đó, NHNN cũng nên tăng cường hệ thống cảnh báo sớm và giám sát chủ động bằng công nghệ (supervisory technology – SupTech), để phát hiện kịp thời những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống. Việc này vừa đảm bảo quyền tự chủ cho các ngân hàng có năng lực, vừa bảo vệ an toàn chung cho toàn hệ thống.

PV: Như ông vừa phân tích, việc bỏ room tín dụng mang lại rất nhiều "điểm cộng". Nhưng chúng ta cũng phải nhìn nhận thẳng thắn những nguy cơ "chạy theo lợi nhuận" của các ngân hàng khi không còn bị giới hạn room, đặc biệt với các lĩnh vực dễ rủi ro như bất động sản hay trái phiếu doanh nghiệp?

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân: Việc dỡ bỏ cơ chế room tín dụng không có nghĩa là NHNN hoàn toàn buông lỏng kiểm soát thị trường tín dụng. Thực tế, NHNN vẫn có trong tay rất nhiều công cụ điều tiết cung tiền và kiểm soát rủi ro hệ thống thông qua các chính sách tiền tệ hiện đại.

Các công cụ như lãi suất điều hành, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các hoạt động thị trường mở (OMO), tái cấp vốn, và đặc biệt là những quy định về hệ số an toàn vốn, tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR), tỷ lệ cho vay bất động sản… đều là những "van an toàn" hữu hiệu để điều tiết dòng tín dụng của toàn hệ thống. Khi nhận thấy tín dụng có dấu hiệu tăng nóng hoặc tập trung vào các lĩnh vực rủi ro, NHNN hoàn toàn có thể điều chỉnh lãi suất, siết thanh khoản, hoặc đưa ra các yêu cầu bổ sung dự trữ để kiểm soát tốc độ tăng trưởng.

Bên cạnh đó, việc minh bạch hóa và nâng cao chất lượng dữ liệu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong giám sát (SupTech), cũng sẽ giúp NHNN nắm bắt sát sao hơn diễn biến tín dụng trên thị trường, kịp thời cảnh báo và can thiệp khi cần thiết.

Ở nhiều quốc gia phát triển, ngân hàng trung ương không áp room tín dụng cho từng tổ chức mà chủ yếu dựa vào các công cụ thị trường để điều tiết tổng thể và mô hình này hoàn toàn có thể vận dụng ở Việt Nam khi các điều kiện thị trường đủ chín muồi.

Vì vậy, nếu các công cụ điều tiết thị trường của NHNN được vận hành linh hoạt, hiệu quả, cùng với sự nâng cấp hệ thống giám sát và quản trị rủi ro trong từng ngân hàng thương mại, thì nỗi lo về việc các ngân hàng "tăng tốc" cho vay quá mức cũng sẽ giảm đi rất nhiều. Điều quan trọng nhất là xây dựng một hệ thống giám sát chủ động, đồng bộ giữa NHNN và từng tổ chức tín dụng, từ đó vừa đảm bảo an toàn hệ thống, vừa thúc đẩy tín dụng chảy vào đúng các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế.

PV: Chính sách mới liệu có giúp cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm SMEs hoặc doanh nghiệp sản xuất, thưa ông?

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân: Thực ra, chính sách mới về bỏ room tín dụng chủ yếu giúp tháo gỡ một "nút thắt" lớn trong cơ chế điều hành, cụ thể là xóa bỏ tình trạng xin - cho, hạn mức cứng nhắc vốn đã tồn tại nhiều năm. Đây là bước đi cần thiết để đưa hoạt động tín dụng về đúng bản chất thị trường, minh bạch hơn, bình đẳng hơn giữa các ngân hàng và doanh nghiệp.

Tuy nhiên, nếu nói chính sách này sẽ giúp cải thiện rõ rệt khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm SMEs hay doanh nghiệp sản xuất, thì tôi cho rằng kỳ vọng như vậy là hơi lạc quan. Nguyên nhân là bởi khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác ngoài câu chuyện room tín dụng. Các vấn đề cố hữu như năng lực tài chính yếu, thiếu tài sản đảm bảo, minh bạch thông tin hạn chế, hoặc quy trình xét duyệt tín dụng phức tạp… vẫn là rào cản chính mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường xuyên đối mặt.

Chính sách mới này về bản chất chỉ giải quyết được vấn đề phân bổ tín dụng không còn bị "thắt" bởi hạn mức hành chính, đồng thời giảm thiểu tình trạng xin - cho, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn giữa các ngân hàng. Nhưng muốn cải thiện thực sự khả năng tiếp cận vốn cho SMEs và doanh nghiệp sản xuất, cần nhiều giải pháp đồng bộ hơn như phát triển các quỹ bảo lãnh tín dụng, khuyến khích cho vay dựa trên dòng tiền, hỗ trợ minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp, đa dạng hóa các kênh tài chính như thị trường vốn, fintech…

Nói một cách ngắn gọn, bỏ room tín dụng là điều kiện cần để xây dựng một thị trường tín dụng minh bạch, hiệu quả hơn, nhưng không phải là điều kiện đủ để giải quyết gốc rễ bài toán tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Để thực sự tạo chuyển biến, cần thêm nhiều chính sách hỗ trợ mang tính nền tảng, đặc biệt hướng tới cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Bỏ room tín dụng không kéo lãi suất giảm ngay

PV: Ông dự đoán việc bỏ room tín dụng sẽ tác động như thế nào đến mặt bằng lãi suất, dòng tiền vào thị trường chứng khoán và bất động sản trong ngắn hạn?

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân: Về tổng thể, tôi cho rằng việc bỏ room tín dụng sẽ không tạo ra những thay đổi quá đột biến đối với mặt bằng lãi suất hay dòng tiền vào thị trường chứng khoán, bất động sản trong ngắn hạn, như nhiều người kỳ vọng. Lý do là bởi room tín dụng thực chất chỉ là một trong các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Khi công cụ này được gỡ bỏ, NHNN vẫn hoàn toàn có thể sử dụng các công cụ thị trường khác như lãi suất điều hành, dự trữ bắt buộc, hoặc các biện pháp quản lý thanh khoản để kiểm soát mục tiêu tăng trưởng tín dụng và cung tiền.

Do đó, lãi suất hay dòng tiền vào các thị trường tài sản sẽ tiếp tục phụ thuộc chính vào định hướng và mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn, chứ không đơn thuần bị chi phối bởi việc còn hay không còn room tín dụng. Nếu NHNN vẫn theo đuổi mục tiêu ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thận trọng với các dòng vốn vào lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán, thì dù không áp room, cơ quan điều hành vẫn có đủ công cụ để điều tiết dòng tiền, kiểm soát mặt bằng lãi suất.

Nói cách khác, bỏ "room" tín dụng giúp môi trường tín dụng minh bạch, thị trường hóa hơn, nhưng không có nghĩa là dòng vốn sẽ chảy mạnh vào các lĩnh vực đầu cơ hoặc lãi suất giảm mạnh ngay lập tức. Mọi sự thay đổi lớn về lãi suất hay dòng tiền sẽ vẫn gắn chặt với định hướng tổng thể của chính sách tiền tệ, cũng như các biện pháp điều hành linh hoạt của NHNN trong thời gian tới. Room tín dụng chỉ là phương tiện thực thi chính sách, còn mục tiêu cuối cùng vẫn do nhà điều hành quyết định dựa trên tình hình thực tế của nền kinh tế.

PV: Việc thay đổi mô hình điều hành tín dụng liệu có dễ triển khai trên thực tế không? Theo ông, những khó khăn lớn nhất trong quá trình chuyển đổi sẽ là gì?

PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân: Việc thay đổi mô hình điều hành tín dụng từ "quản lý bằng room" sang vận hành hoàn toàn dựa trên các công cụ thị trường chắc chắn sẽ gặp không ít thách thức khi triển khai trên thực tế. Theo tôi, khó khăn lớn nhất nằm ở chỗ các công cụ thị trường mà NHNN đang sử dụng liệu đã thực sự sẵn sàng, đủ linh hoạt và hiệu quả để thay thế vai trò của room tín dụng trong việc điều tiết tổng thể dòng vốn, kiểm soát rủi ro hệ thống.

Ở các nền kinh tế phát triển, công cụ thị trường như lãi suất điều hành, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, các chỉ số giám sát thanh khoản… thường phát huy tác dụng rất mạnh nhờ cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ thông suốt, dữ liệu minh bạch và khả năng dự báo sát thực tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam, độ trễ của chính sách tiền tệ vẫn còn khá lớn, nhiều khi từ lúc ban hành chính sách tới lúc tác động thực lên nền kinh tế lại mất khá nhiều thời gian. Trong khi đó, thị trường tài chính - tiền tệ của chúng ta cũng còn khá sơ khai, việc lan tỏa tín hiệu chính sách đến từng ngân hàng và doanh nghiệp vẫn chưa thực sự nhanh và hiệu quả.

Chính vì vậy, nếu bỏ room, NHNN sẽ phải nâng cấp rất mạnh hệ thống dự báo và cảnh báo sớm, tương tự như hệ thống FRED của Mỹ, để kịp thời nhận diện các rủi ro, xu hướng bất thường trên thị trường. Đây là thách thức không nhỏ, đòi hỏi phải đầu tư vào công nghệ, dữ liệu lớn, nguồn nhân lực chất lượng cao và cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý.

Ngoài ra, hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc đẩy mạnh các giải pháp như phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao minh bạch thông tin, thúc đẩy các kênh dẫn vốn hiện đại, để tín hiệu từ chính sách của NHNN có thể truyền dẫn nhanh hơn, sát hơn tới thị trường thực.

Tóm lại, thay đổi mô hình điều hành tín dụng là bước đi tất yếu, nhưng để thành công thì không chỉ cần ý chí từ phía cơ quan quản lý, mà quan trọng hơn cả là phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện kỹ thuật, dữ liệu, công cụ dự báo - cảnh báo, và cả sự đồng bộ trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Đây sẽ là một quá trình chuyển đổi phức tạp, đòi hỏi sự kiên trì, cẩn trọng và quyết tâm cao độ từ cả NHNN lẫn toàn hệ thống.

- Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông!

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top