
Sovico: Tầm nhìn của tập đoàn đầu tư trong nỗ lực mở rộng “biên giới mềm” quốc gia
Sovico bắt đầu hành trình cách đây hơn 30 năm với một ước vọng giản dị: Góp phần phát triển đất nước bằng những giá trị thực chất. Hôm nay, ước vọng ấy lớn hơn - là đưa Việt Nam trở thành trung tâm kinh tế khu vực, một đất nước hùng cường, nhân văn, có vị thế toàn cầu.
Đầu tư vào AI, blockchain, kinh tế tuần hoàn và công nghệ "Make in Vietnam" sẽ là chìa khóa để Việt Nam tăng tốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bên cạnh đó, chúng tôi đang xây dựng một hệ sinh thái hàng không toàn diện, từ kỹ thuật, logistics, đào tạo, nghiên cứu đến hợp tác với những nhà sản xuất động cơ, tàu bay, những đối tác công nghệ toàn cầu như GE, Pratt & Whitney, Airbus, Boeing…
Với chúng tôi, hàng không không chỉ là phương tiện di chuyển mà là hạ tầng phát triển, là chiếc cầu kết nối giấc mơ, tri thức và cơ hội".
*****
Một trong những thành quả lớn của gần bốn thập kỷ Đổi mới là mức độ hội nhập sâu rộng của Việt Nam với thế giới. Trong hành trình ấy, doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò tiên phong, vừa mở rộng năng lực cạnh tranh quốc gia, vừa khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Sovico là một trong những tập đoàn tiêu biểu cho nỗ lực quốc tế hóa ấy. Khởi đầu khiêm tốn từ thập niên 90, dưới sự dẫn dắt của doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo, Sovico đã phát triển thành tập đoàn đa ngành hàng đầu, với sự hiện diện ở nhiều quốc gia và những lĩnh vực có thị trường quốc tế rộng lớn như hàng không (Vietjet Air), tài chính - ngân hàng (HDBank), năng lượng, bất động sản và công nghệ.
Chiến lược quốc tế hóa của Sovico được định hình từ rất sớm: Xây dựng thương hiệu Việt có tầm ảnh hưởng toàn cầu, gắn với sứ mệnh đóng góp cho phát triển bền vững và nâng cao hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.
Vươn ra toàn cầu là cách để kéo thế giới đến gần hơn với Việt Nam, và cũng là cách để khẳng định hình ảnh doanh nghiệp Việt tự tin, bản lĩnh, năng động, sáng tạo trên trường quốc tế. Hành trình ấy truyền cảm hứng cho các doanh nghiệp tư nhân khác phát huy vai trò đối với công cuộc hội nhập, góp phần tích lũy thế và lực cho quá trình bứt phá tiếp theo của nền kinh tế, từng bước nâng tầm vị thế quốc gia. Sovico cũng là điển hình cho tinh thần hội nhập quốc tế dựa trên cơ sở nội lực, phát huy tối đa nội lực đi đôi với tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển nhanh, bền vững… được đặt ra trong Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
PGS.TSKH. Võ Đại Lược, Chủ tịch Hội đồng quản lý Trung tâm Kinh tế Thái Bình Dương (VAPEC), nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới nhấn mạnh: Chúng ta chỉ khai thác tốt các Hiệp định thương mại tự do cũng như các thành quả đối ngoại kinh tế khác khi có được một lực lượng doanh nghiệp tư nhân mạnh mẽ. Ông cho rằng, bằng sự năng động và linh hoạt, doanh nghiệp tư nhân là lực lượng quan trọng của hội nhập quốc tế và hành trình ấy rất cần những doanh nghiệp có khát vọng, bản lĩnh, tinh thần tiên phong và chiến lược bài bản như Sovico.
Cuộc trao đổi, bình bàn về năng lực hội nhập, vươn ra thế giới của Sovico cùng PGS.TSKH. Võ Đại Lược bắt đầu từ câu chuyện về vai trò, vị thế của ngành hàng không Việt Nam đối với tiến trình hội nhập và tầm nhìn về tiềm năng khai thác không gian vũ trụ, cùng khát vọng đưa Việt Nam trở thành trung tâm hàng không của khu vực và thế giới.
- Doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Sovico từng chia sẻ, một trong những lý do thành lập hãng hàng không Vietjet là bởi “hàng không có sức cuốn hút mãnh liệt, không phải ở hiệu quả, doanh thu, lợi nhuận mà là vì những thay đổi mang đến cho nền kinh tế, cho đất nước, vừa mang Việt Nam ra thế giới, vừa kéo thế giới đến Việt Nam”. Thưa PGS.TSKH. Võ Đại Lược, ông nghĩ sao về “sức cuốn hút mãnh liệt” ấy của ngành hàng không, nhất là với vấn đề hội nhập quốc tế?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Để phát triển, có lẽ không có gì quan trọng hơn sự kết nối, liên kết. Ở góc độ là phương tiện vận tải, hàng không có lợi thế so sánh tuyệt đối mà các phương tiện khác không thể có được, đó chính là thời gian di chuyển, khả năng kết nối bầu trời, “kéo gần” khoảng cách địa lý. Nhờ đó, hàng không là một trong những trụ cột quan trọng đối với quá trình kiến quốc. Tốc độ tăng trưởng của ngành góp phần tích cực trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đảm bảo chuỗi cung ứng hàng hóa, góp phần chia đều cơ hội phát triển và tăng cường liên kết giữa các vùng. Đồng thời, hàng không tác động cả trực tiếp lẫn gián tiếp đến nhiều ngành, lĩnh vực khác, đặc biệt là du lịch, tạo động lực dẫn dắt phát triển. Theo tính toán của một số chuyên gia quốc tế, ngành hàng không tăng trưởng 2,5 điểm % sẽ góp phần kích thích tăng trưởng GDP thêm 1 điểm %.
Đối với hội nhập quốc tế, có thể đúc kết một cách tương đối rằng, hàng không góp phần làm phẳng hóa và rút ngắn khoảng cách nhanh nhất đến với thế giới. Như khẳng định của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: “Các hãng hàng không Việt Nam, máy bay Việt Nam bay tới đâu thì ‘biên giới mềm’ của nước ta tới đó”.
Có thể nói, sự phát triển của ngành hàng không nói chung, lượng khách quốc tế và những chuyến bay quốc tế nói riêng là thước đo quan trọng phản ánh mức độ phát triển, mở cửa và hội nhập của quốc gia. Tại Việt Nam, cùng với sự ra đời của các hãng hàng không tư nhân, nền kinh tế đất nước đã hội nhập nhanh, sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Trong hành trình đó, không đơn thuần là phương tiện vận tải, cầu nối văn hóa, giao thương, hàng không còn là sứ giả thương hiệu, góp phần lan tỏa hình ảnh, “sức mạnh mềm” của quốc gia. Với sứ mệnh đó, hàng không là ngành có thể tạo đột phá.
Vietjet Air mở đường bay thẳng Phú Quốc – Singapore, khai thác từ tháng 5/2025.
- Ông đánh giá ra sao về mức độ phát triển của ngành hàng không Việt Nam hiện tại, và trong bức tranh đó, dấu ấn của kinh tế tư nhân nói chung và Vietjet Air nói riêng được thể hiện như thế nào?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Hàng không là lĩnh vực đòi hỏi đầu tư lớn với nguồn vốn lớn, công nghệ tối tân, kỹ năng quản trị cao nên trong suốt nhiều thập kỷ, Việt Nam chỉ có duy nhất một hãng hàng không quốc doanh. Ban đầu, đường bay chưa nhiều, số lượng máy bay ít, giá vé cao, nên máy bay là một phương tiện xa xỉ với phần đông người dân.
Những thay đổi mang tính bước ngoặt của hàng không được tạo ra từ khi có sự xuất hiện của hãng bay tư nhân. Vietjet Air là hãng bay tư nhân đầu tiên của Việt Nam được thành lập vào năm 2007 và chính thức đi vào hoạt động, bay chuyến đầu tiên từ cuối năm 2011.
Không có cạnh tranh thì không thể có thị trường. Sự xuất hiện của Vietjet đã tạo ra một thị trường hàng không nội địa mới mẻ, cạnh tranh quyết liệt. Với chiến lược táo bạo và khác biệt, Vietjet đã làm được điều tưởng chừng như không thể, đó là mô hình hàng không giá rẻ: Tạo điều kiện cho hàng triệu người được tiếp cận dịch vụ hàng không, với mức giá vừa túi tiền nhưng chất lượng dịch vụ không hề thua kém các hãng hàng không lớn quốc tế.
Sự xuất hiện của Vietjet đã tạo ra một thị trường hàng không nội địa mới mẻ, cạnh tranh quyết liệt.
Việc khai thác đội bay hiện đại, tối ưu hóa chi phí, và không ngừng sáng tạo trong các chiến dịch tiếp thị của Vietjet đã góp phần “phổ cập” dịch vụ hàng không tại Việt Nam. Không chỉ vận hành các đường bay, Vietjet còn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, hợp tác với các nhà sản xuất máy bay hàng đầu như Boeing, Airbus, các tổ chức tài chính, bảo dưỡng, công nghệ… trên thế giới.
Vietjet đẩy mạnh mở rộng mạng bay quốc tế bên cạnh duy trì ổn định mạng bay nội địa, nhằm khai phá các thị trường mới, tăng cường kết nối Việt Nam với các quốc gia trong và ngoài khu vực, góp phần thúc đẩy du lịch, giao thương và đầu tư giữa các bên. Trong nhiều năm qua, mảng vận chuyển khách quốc tế mang lại doanh thu cao hơn cả thị trường nội địa, cho thấy Vietjet đang chuyển mình thành hãng hàng không quốc tế lớn trong khu vực.
Với tinh thần máy bay Việt Nam bay tới đâu thì bầu trời Việt Nam mở ra tới đó, Vietjet đã thúc đẩy quốc tế hóa, mang chuông đi đánh xứ người, thành lập hãng hàng không Vietjet tại Thái Lan với 20 tàu bay, trở thành một trong những hãng dẫn đầu tại Thái Lan. Định hướng trở thành “Emirates của châu Á” trong tương lai, gia tăng vai trò kết nối giao thương toàn cầu cho Việt Nam, có thể kỳ vọng rằng, Vietjet sẽ còn có những bước tiến dài hơn nữa. Đó là điều rất đáng tự hào và cần tôn vinh. Nếu không có sự tiên phong dấn thân của doanh nghiệp tư nhân, nền kinh tế Việt Nam sẽ đi đâu về đâu, và ngành hàng không nói riêng có thể bật lên không? Tôi không dám tưởng tượng.
Vietjet và Airbus ký hợp đồng 20 tàu bay A330neo 7,4 tỷ USD tại Farnborough Airshow 2024.
Lễ bàn giao tàu bay 737-8 đầu tiên giữa Boeing và Vietjet với sự chứng kiến của Chủ tịch nước Lương Cường tại Seattle, Hoa Kỳ (21/9/2025). Chiếc tàu bay này nằm trong hợp đồng 200 tàu bay trị giá 32 tỷ USD – đơn hàng hàng không lớn nhất giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
- Cụ thể hơn, xin ông chia sẻ thêm về những đổi thay của ngành hàng không nói chung từ khi “có thị trường”?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Một thị trường cạnh tranh đã loại bỏ tính “bảo thủ” của ngành hàng không trước đây, làm giảm đáng kể giá vé máy bay, tăng chất lượng dịch vụ, đồng thời kích thích sự hình thành nhiều hơn các sân bay địa phương, đường bay được mở rộng, kinh tế địa phương khởi sắc. Ngành hàng không từng bước đổi thay diện mạo, đổi mới từ kỹ thuật xăng dầu, tiết kiệm nhiên liệu, đến điều hành bay, dần thay đổi phương thức quản lý, nền tảng pháp lý, đánh thức hàng chục sân bay địa phương, thu hút đầu tư nước ngoài…
Được biết, giai đoạn 2011 - 2019, ngành hàng không Việt Nam tăng trưởng hơn 15%/năm, được đánh giá là thị trường phát triển nhanh thứ 5 thế giới và nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Sự phát triển của các hãng hàng không trong nước với hơn 200 tàu bay hiện nay là cơ sở để hình thành ngành công nghiệp hàng không, trước mắt là sửa chữa, bảo dưỡng, sau này là sản xuất linh kiện, phụ tùng, thiết bị, thậm chí động cơ máy bay…
Có thể khẳng định, sự vào cuộc và nỗ lực của hãng hàng không tư nhân đã kích thích sự lớn mạnh và cạnh tranh sòng phẳng của ngành hàng không Việt Nam trước sức ép của các hãng mạnh trên thế giới. Khó khăn, thách thức với ngành hàng không là rất lớn nhưng có lẽ không gì là không thể với tầm nhìn, bản lĩnh và khí phách của kinh tế tư nhân.
- Trong một cuộc họp với Thủ tướng Chính phủ, khẳng định năng lực, sáng kiến của các tập đoàn tư nhân Việt Nam là không giới hạn, doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo mong muốn Chính phủ hãy tin tưởng ở doanh nghiệp tư nhân, tạo điều kiện xây dựng các quy định pháp luật, cơ chế phát triển cho các doanh nghiệp dân tộc. Đồng thời bà lan tỏa thông điệp: “Hãy biến Việt Nam thành trung tâm hàng không của khu vực và thế giới. Với vị trí thuận lợi, chúng ta hãy khẩn trương đầu tư, nâng cấp hệ thống sân bay quốc tế để trở thành trung tâm trung chuyển hành khách và hàng hóa quốc tế”.
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Đây không chỉ là một tuyên bố về khát vọng mà còn là một sự nhắc nhở về thực tiễn, rằng Việt Nam, với vị trí địa lý thuận lợi và năng lực sẵn có, hoàn toàn có thể trở thành một trung tâm hàng không trọng điểm, cả trong khu vực Đông Nam Á và trên toàn cầu. Trung tâm hàng không toàn cầu là điều khao khát của các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới bởi những lợi ích về kinh tế mang lại rất lớn. Các chuyến bay từ khắp nơi sẽ đổ về đây và chuyển tiếp đi hành trình tiếp theo. Rất sôi động và nhộn nhịp. Đó là cơ hội để phát triển một hệ sinh thái dịch vụ, thương mại… quanh sân bay.
Việt Nam có vị trí địa chiến lược tại trung tâm khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, sở hữu mặt tiền hướng ra Biển Đông, là điểm giao cắt chiến lược của các tuyến hàng hải, hàng không quốc tế. Vị trí địa lý của Việt Nam đặc biệt thuận lợi cho việc phát triển ngành hàng không và vận chuyển hàng không. Trên bản đồ hàng không khu vực, các cảng hàng không lớn như của Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc), Đài Loan (Trung Quốc)... đều nằm trong bán kính khoảng 2 giờ bay từ Thủ đô Hà Nội và TP.HCM. Thêm vào đó, hầu hết thủ đô của các quốc gia ASEAN cũng cũng nằm trong phạm vi bay khoảng 2 giờ đến TP.HCM. Hệ thống sân bay tại các khu vực trọng điểm như Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng, nếu được phát triển đúng hướng, có thể đóng vai trò cầu nối giữa các thị trường quốc tế, thúc đẩy giao thương, du lịch và các hoạt động kinh tế toàn cầu.
Khi chúng ta có thể nâng cấp và phát triển hạ tầng sân bay, tạo ra những sân bay quốc tế hiện đại, kết nối liền mạch, Việt Nam sẽ có khả năng trở thành trung tâm trung chuyển hành khách và hàng hóa quốc tế.
- Chúng ta đã nghe nhiều đến phát triển không gian biển, không gian ngầm, bên cạnh không gian mặt đất, và gần đây, "không gian vũ trụ" cũng đang được nhắc tới nhiều hơn với hàm ý cần đầu tư hạ tầng sân bay, phát triển mạnh mẽ ngành hàng không. Ông nhìn nhận như thế nào về sự cần thiết của việc đầu tư phát triển hạ tầng hàng không, mạng lưới sân bay, đặc biệt trong bối cảnh đất nước cần phát huy tối đa nội lực để bước vào kỷ nguyên vươn mình?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Nhìn từ vai trò của ngành hàng không như đã nói, thì hạ tầng hàng không là yếu tố không thể thiếu để đảm bảo sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu ngày càng có sự liên kết chặt chẽ.
Mức độ hội nhập rất sâu hiện nay đang kéo ngành hàng không tăng trưởng nhưng cũng tạo sức ép không nhỏ bởi sự quá tải đang diễn ra ở những sân bay lớn, trong khi một số sân bay địa phương lại khó khai thác do thiếu sự kết nối. Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu, không theo kịp tốc độ khai thác; sự kết nối dịch vụ vận chuyển hàng không với vận chuyển mặt đất chưa chặt chẽ; thiếu sân bay chuyên dụng như sân bay hàng hóa, bãi đỗ dành cho máy bay tư nhân; thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ vận tải hàng không… Những yếu tố này đã và đang cản trở đà cất cánh của ngành hàng không Việt Nam.
Từ góc nhìn thực tế của doanh nghiệp dấn thân trong ngành hàng không, doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo đã chỉ ra một điểm quan trọng, đó là cần “khẩn trương đầu tư”, cho thấy tính cấp bách trong việc hiện đại hóa và nâng cấp cơ sở hạ tầng, bởi hạ tầng hàng không hiện tại vẫn là một điểm yếu của Việt Nam. Nếu chúng ta không hành động kịp thời, sẽ mất cơ hội để chiếm lĩnh vai trò trung tâm hàng không khu vực.
Mặt khác, trong cách tiếp cận mới, "không gian vũ trụ" không đơn thuần được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là phóng vệ tinh hay khám phá các hành tinh xa xôi. Ý nghĩa sâu xa về mặt kinh tế chính là khả năng làm chủ và khai thác hiệu quả không gian gần - tức là vùng trời tầm thấp mà ngành hàng không vận hành. Việc vận hành thông minh, tối ưu hóa hạ tầng hàng không chính là bước đệm để tiến vào không gian rộng lớn hơn. Nói cách khác, không thể bàn tới việc chinh phục không gian vũ trụ nếu chưa phát triển bài bản hệ thống sân bay, chưa làm chủ công nghệ điều hành hàng không...
Quan trọng hơn, hạ tầng hàng không chính là cơ sở để phát triển các ngành then chốt như du lịch, logistics, và thương mại quốc tế. Khi sân bay hiện đại có khả năng phục vụ tốt lượng khách lớn và vận chuyển hàng hóa hiệu quả, nền kinh tế Việt Nam sẽ được hưởng lợi lớn từ việc tăng trưởng thương mại và sự gia tăng dòng khách quốc tế. Với những nền tảng này, không chỉ riêng ngành hàng không mà tất cả các ngành liên quan cũng sẽ được hưởng lợi.
Đại diện Embraer – hãng máy bay dân dụng lớn thứ 3 thế giới đánh giá, với dân số khoảng 100 triệu người và tăng trưởng kinh tế mục tiêu trên 8%, thậm chí 2 con số trong giai đoạn 2025 - 2035, Việt Nam cần tăng cường năng lực để đáp ứng nhu cầu vận tải hàng không dự kiến.
Hiện Việt Nam đang có khoảng 22 sân bay dân dụng. Theo quy hoạch đến năm 2050, cả nước sẽ có 33 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng quốc tế và 19 cảng nội địa. Việc đầu tư phát triển hạ tầng hàng không, không đơn thuần là xây dựng sân bay, mà còn là tạo dựng nền tảng để Việt Nam kết nối sâu rộng hơn với thế giới, thu hút đầu tư, thúc đẩy giao thương quốc tế và từng bước nâng tầm vị thế quốc gia. Đó là tầm nhìn về tương lai, về khát vọng vươn ra thế giới và vươn tới hùng cường bằng chính “đôi cánh” nội lực của mình.
- Kinh nghiệm quốc tế về phát triển hạ tầng hàng không, không gian vũ trụ cho Việt Nam bài học gì, thưa ông?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Dubai, Singapore đã thành công trong việc phát triển hạ tầng hàng không và ngành công nghiệp không gian vũ trụ, mang lại nhiều bài học quý giá cho Việt Nam. Một trong những yếu tố quan trọng là sự đầu tư đồng bộ vào hạ tầng, không chỉ ở sân bay mà còn liên kết với các ngành khác như logistics, dịch vụ hỗ trợ, và công nghệ cao. Điều này giúp phát huy tối đa hiệu quả kinh tế và thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ.
Kinh nghiệm từ Dubai, một trung tâm hàng không và du lịch quốc tế, cho thấy việc xây dựng hạ tầng hàng không hiện đại cùng với một chiến lược phát triển khu vực thương mại và công nghiệp quanh sân bay là chìa khóa thành công. Sự phát triển của Dubai song hành với sự phát triển của hạ tầng hàng không, trở thành kiểu mẫu về mô hình “hub hàng không” toàn cầu. Họ đang đầu tư khoảng 35 tỷ USD cho nhà ga hành khách tại sân bay quốc tế Al Maktoum (DWC), củng cố vị thế trung tâm hàng không hàng đầu thế giới. Sau khi hoàn thành, sân bay này dự kiến sẽ có sức chứa lớn nhất thế giới, có thể tiếp nhận hơn 260 triệu hành khách, lớn gấp 5 lần sân bay quốc tế Dubai hiện tại, đồng thời có thể tiếp nhận 400 cổng tàu bay và có 5 đường băng song song. Mọi hoạt động tại Sân bay quốc tế Dubai sẽ được chuyển giao cho sân bay này trong những năm tới.
Singapore cũng đã tập trung vào việc xây dựng sân bay Changi không chỉ là nơi trung chuyển hành khách mà còn là một trung tâm thương mại quốc tế, kết nối các ngành công nghiệp và tạo ra giá trị gia tăng.
Trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng hiện nay, Việt Nam cần biết cách tận dụng mọi lợi thế của mình - trong đó có vị trí địa lý chiến lược ở trung tâm Đông Nam Á - để phát triển một mạng lưới sân bay hiện đại, đa dạng bao gồm cả các sân bay chuyên dụng (sân bay hàng hóa, sân bay và bãi đỗ cho máy bay tư nhân…), có sự liên thông toàn cầu và gắn kết bài bản với chuỗi cung ứng xung quanh. Điều này không chỉ thúc đẩy mạnh mẽ ngành du lịch, xuất nhập khẩu, mà còn kéo theo sự phát triển của hàng loạt lĩnh vực khác như logistics, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao.
Thực tế, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu ngày càng phụ thuộc vào sự kết nối nhanh chóng và hiệu quả, việc phát triển hệ thống sân bay quốc tế hiện đại đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế và là yếu tố quyết định trong việc xây dựng và nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia.
- Như ông nói, Việt Nam có lợi thế lớn về hàng không nhưng vì sao đến nay chúng ta vẫn chưa tận dụng được. Phải chăng, điều này xuất phát từ sự lẻ bóng của doanh nghiệp tư nhân trong hành trình. Đây cũng là câu chuyện của Sovico nói chung, Vietjet nói riêng. Rõ ràng, chúng ta cần tạo môi trường để những “cánh chim đầu đàn” phát huy hơn nữa sức mạnh của họ, đồng thời dẫn dắt, thúc đẩy nhiều hơn các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Đúng vậy, sự tham gia của khu vực tư nhân hiện còn hạn chế, cả trong lĩnh vực phát triển hạ tầng hàng không lẫn hàng không.
Số lượng hãng bay hiện nay vẫn chỉ đếm trên đầu bàn tay. Có hãng luôn “đau đầu” vì thiếu máy bay, liên tục thua lỗ sau nhiều năm hoạt động, thậm chí phải đóng cửa. Trong bối cảnh tương đối “dặt dẹo” đó, sự vươn lên của Vietjet là rất đáng kể, tôi muốn gọi đó là nỗ lực phi thường của một doanh nghiệp tư nhân có bản lĩnh, nhưng quan trọng hơn có lẽ là chiến lược bài bản. Họ lựa chọn hàng không là lĩnh vực chiến lược để làm bàn đạp vươn ra toàn cầu, dù biết rằng, đi tiên phong thì thách thức là vô vàn.
Bằng tư duy không ngừng đổi mới sáng tạo, linh hoạt thích ứng, học hỏi nhanh chóng các bài học kinh nghiệm từ quá trình hợp tác quốc tế với các “ông lớn” toàn cầu, Sovico đã thúc đẩy một hãng hàng không Việt nhanh chóng vươn tầm khu vực. Hậu Covid-19, trong bối cảnh ngành hàng không lỗ nặng, hàng trăm hãng bay trên thế giới đã và đang đứng trước nguy cơ phá sản, Vietjet là một trong số ít hãng bay phục hồi mạnh và nhanh chóng có lãi trở lại, duy trì đóng góp ngân sách hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Tôi thấy họ liên tục hợp tác với các hãng bay toàn cầu, mua tàu bay mới, mở rộng đường bay quốc tế mới, mục tiêu trở thành trở thành hãng hàng không đa quốc gia, có mạng bay rộng khắp đang dần trở thành hiện thực.
Nhưng phải khẳng định rằng, phần lớn những thành quả đó là nỗ lực tự thân, dựa trên nền tảng, mô hình sáng tạo của Sovico và tầm nhìn phát triển bền vững của doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo. Trên thực tế, cơ chế chính sách còn nhiều trói buộc đã khiến doanh nghiệp khó bứt phá. Trong khi, ngành hàng không cần sự đầu tư bài bản, từ quy hoạch đến thực thi quy hoạch mà chỉ khi thúc đẩy xã hội hóa, khuyến khích và tăng cường vai trò của doanh nghiệp tư nhân thì mới có thể hiện thực hóa được các khát vọng.
Ước tính nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 400 nghìn tỷ đồng, gấp 4 lần tổng vốn đầu tư 10 năm qua. Đó là số vốn khổng lồ cho thấy cần huy động nguồn lực xã hội hóa. Việc xã hội hóa không chỉ giúp giải quyết bài toán tài chính mà còn mở ra cơ hội để doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu hơn vào công tác xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác hạ tầng hàng không. Điều này không chỉ giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo động lực phát triển lâu dài, tạo dựng vị thế cạnh tranh. Xã hội hóa hạ tầng hàng không cần được xem là giải pháp cốt lõi, vừa tháo gỡ điểm nghẽn tài chính vừa tạo động lực để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm trung chuyển hàng không khu vực và thế giới.
Ở góc độ nào đó, tôi cảm nhận được sự trăn trở của doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo, khi nhìn thấy rõ tiềm năng và cả những điểm nghẽn đang cản đường. Sự trăn trở ấy thôi thúc doanh nhân hành động, dám lên tiếng, dám khẳng định sức mạnh của doanh nghiệp tư nhân với Chính phủ; kiến nghị cơ chế, chính sách để khơi thông cho sự phát triển của ngành, lĩnh vực mình tham gia. Đó không chỉ là sự tự tin mà còn là tinh thần trách nhiệm, là phẩm chất tốt đẹp của một doanh nhân dân tộc, doanh nghiệp đầu tàu.
- Theo ông, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay có đủ năng lực để tham gia đầu tư sân bay, góp phần thúc đẩy hạ tầng hàng không hay không?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Tôi cho rằng, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực và điều kiện để tham gia đầu tư phát triển hạ tầng hàng không, kể cả các dự án lớn như sân bay, mang tính trọng điểm quốc gia. Thực tế đã chứng minh điều đó khi Sun Group mở màn mạnh dạn đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn - sân bay quốc tế đầu tiên do tư nhân xây dựng, khai thác và hiện nay họ đang bắt tay triển khai dự án mở rộng cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, ứng dụng công nghệ hàng đầu thế giới.
Làm sân bay không dễ. Không phải doanh nghiệp nào cũng đủ tầm vóc và bản lĩnh nhưng một khi họ đã đề xuất làm và cam kết thực hiện được thì chắc chắn đã chuẩn bị kỹ lưỡng, đó là sự tự tin có cơ sở. Khi mở cho tư nhân tham gia, tính cạnh tranh sẽ rất khốc liệt nhưng tôi tin rằng, các doanh nghiệp tư nhân sẽ đảm bảo những điều kiện về tiến độ, quản trị, chất lượng bằng sự năng động, sáng tạo và tinh thần chống lãng phí, bởi họ hiểu rõ hơn ai hết giá trị của nguồn lực và chi phí cơ hội để tìm cách triển khai nhanh nhất.
Sovico chưa bắt tay vào một dự án sân bay cụ thể, nhưng những tuyên bố của Chủ tịch Tập đoàn về khát vọng phát triển hạ tầng hàng không, làm chủ công nghệ hàng không - không gian, góp phần đưa Việt Nam trở thành trung tâm trung chuyển mới của khu vực, cho thấy một tầm nhìn lớn. Và quan trọng nhất, chiến lược này đang được bắt tay vào thực thi bằng những hành động bền bỉ mang tính nền tảng, từ nỗ lực phát triển hãng bay mang tầm quốc tế đến kiến tạo hệ sinh thái hạ tầng đồng bộ quanh sân bay, logistics, đô thị và năng lượng xanh. Tôi cho rằng, sớm thôi, khi có cơ chế, Sovico sẽ sẵn sàng tham gia xây dựng sân bay, kết hợp phát triển khu công nghiệp logistics hay đô thị bao quanh sân bay… Và họ có nguồn lực, năng lực và sự quyết liệt để có thể triển khai hiệu quả.
Cách đây hơn một thập kỷ, ít ai nghĩ rằng một doanh nghiệp tư nhân có thể thành lập và vận hành hãng hàng không dân dụng tại Việt Nam. Thế nhưng, Vietjet - hãng hàng không tư nhân đầu tiên - đã trở thành một trong những thương hiệu hàng không phát triển nhanh nhất khu vực, có mạng bay phủ khắp châu Á và vươn ra toàn cầu.


Vietjet - hãng hàng không tư nhân đầu tiên của Việt Nam - đã trở thành một trong những thương hiệu hàng không phát triển nhanh nhất khu vực, có mạng bay phủ khắp châu Á và vươn ra toàn cầu.
Không dừng lại ở việc khai thác vận tải hàng không, Vietjet đã mở rộng năng lực của mình sang các lĩnh vực khác trong hệ sinh thái hàng không như đào tạo nhân lực, bảo dưỡng kỹ thuật và kết nối công nghiệp. Học viện Hàng không Vietjet hiện đại, tiện nghi hàng đầu trong khu vực, hợp tác với Airbus, hàng năm đào tạo 50.000 lượt học viên, tạo ra lực lượng lao động chất lượng cao phi công, kỹ sư, nhân lực công nghệ vận hành hơn 100 tàu bay. Trung tâm Công nghệ Hàng không của học viện này cũng sẽ góp phần hình thành trung tâm dịch vụ kỹ thuật tàu bay quy mô khu vực, cung cấp các dịch vụ kỹ thuật và bảo dưỡng máy bay công nghệ cao cho thị trường trong nước và quốc tế, sẵn sàng cho việc sản xuất linh kiện cũng như công nghệ phụ trợ cho ngành hàng không ngay tại Việt Nam.
Thực tế đó cho thấy, việc đầu tư phát triển các sân bay không chỉ đơn thuần là phục vụ khai thác vận tải hành khách, mà còn phải gắn liền với chiến lược phát triển công nghiệp hàng không. Vietjet đang vận hành hơn 100 tàu bay nhưng hàng trăm cán bộ kỹ thuật của Vietjet đang thực hiện bảo dưỡng kỹ thuật tàu bay ở sân bay Wattay (Viêng Chăn, Lào) trong liên doanh với Lao Airlines, chi phí tốn kém. Trong khi Việt Nam hoàn toàn có đủ tiềm lực để xây dựng hệ thống hangar - phát triển các trung tâm dịch vụ kỹ thuật tàu bay quy mô khu vực tại các sân bay, nếu có sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước trong việc đầu tư hạ tầng đồng bộ. Tôi cho rằng, đây chính là mảnh ghép còn thiếu để hoàn thiện hệ sinh thái hàng không quốc gia.
Thêm vào đó, một điểm sáng khác là Việt Nam đã bắt đầu sản xuất linh kiện cho tàu bay, mở ra triển vọng trở thành trung tâm sản xuất và lắp ráp tàu bay trong tương lai gần - giống như cách Trung Quốc hiện đang sản xuất linh kiện cho Boeing và lắp ráp tàu bay Airbus. Thậm chí, chúng ta có thể ước vọng, trong tương lai doanh nghiệp Việt có thể sản xuất được đội máy bay hùng mạnh mang quốc tịch Việt Nam.
Với số lượng đặt hàng tàu bay lớn của các hãng hàng không Việt Nam và nhu cầu phát triển mạnh mẽ của ngành, chúng ta có cơ sở để xây dựng một chuỗi cung ứng hàng không nội địa, tạo thêm giá trị gia tăng và việc làm chất lượng cao cho nền kinh tế, góp phần hướng tới khát vọng hùng cường.
Như vậy, có thể thấy rằng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam - đặc biệt là những tập đoàn có tầm nhìn chiến lược như Sovico với tiềm lực tài chính mạnh, kinh nghiệm quản trị hiện đại, khả năng kết nối quốc tế và khát vọng xây dựng một ngành hàng không hoàn chỉnh từ hạ tầng đến dịch vụ… hoàn toàn có thể tạo nên sự bứt phá.
Điều quan trọng là cần có sự đồng hành và cơ chế hỗ trợ từ phía Nhà nước, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến quy hoạch sân bay, cơ chế hợp tác công - tư, và tháo gỡ các rào cản thủ tục, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận quỹ đất, công nghệ, và thị trường.
Nếu được tạo điều kiện thuận lợi, tôi tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ không chỉ đầu tư xây dựng thành công các sân bay, mà còn góp phần hình thành những trung tâm hàng không khu vực - nơi hội tụ vận tải, kỹ thuật, đào tạo và công nghiệp hàng không - đưa Việt Nam vươn lên thành điểm trung chuyển quan trọng của châu Á.
- Định vị mình trở thành tập đoàn đầu tư hàng đầu Việt Nam và “mang tầm quốc tế”, ngay từ khi thành lập, Sovico hoạt động với mục tiêu cung cấp các sản phẩm và dịch vụ chất lượng quốc tế trong các lĩnh vực họ tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và hội nhập kinh tế toàn cầu. Có lẽ, năng lực nội tại, sự tự tin, tầm nhìn và khát vọng của Sovico được kết tinh chính từ những bước đi tiên phong trong hành trình hội nhập với chiến lược quốc tế hóa từ rất sớm. Họ nỗ lực vươn mình ra thế giới để đưa những giá trị chuẩn mực quốc tế tiên tiến về với Việt Nam. Đó cũng là cách để doanh nghiệp tư nhân có thể góp phần đưa nền kinh tế quốc gia tiến cùng thời đại, thưa ông?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Chiến lược quốc tế hóa của Sovico quả thực rất ấn tượng, và khi nghiên cứu kỹ lại càng thấy tâm đắc. Chiến lược ấy xuất phát từ khát vọng xây dựng những thương hiệu Việt có thể cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn lớn trên trường quốc tế. Đó là tinh thần nghĩ lớn, làm lớn, làm bài bản ngay từ đầu. Muốn “sánh vai” thì phải biết người biết ta, vượt khỏi tư duy ao làng, hình thành tư duy kinh doanh toàn cầu. Họ không chờ đến lúc thật mạnh rồi mới vươn ra mà chọn cách vươn ra để có thể “mạnh lên” nhanh hơn, đồng thời tạo nền tảng nội lực và dựa vào đó để tiếp tục nâng tầm vị thế.
Doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo vốn có nhiều năm học tập và kinh doanh tại Nga. Sovico được thành lập dựa trên vốn liếng được tích lũy từ hoạt động kinh doanh hàng hóa giữa các nước Đông Âu và châu Á của bà Thảo cùng cộng sự từ khi còn là du học sinh. Có lẽ tầm nhìn quốc tế và khả năng ngoại giao của lãnh đạo Sovico đã được hình thành từ đó.
Chiến lược vươn ra thế giới của Sovico được thể hiện rõ ràng từ việc lựa chọn các trụ cột kinh doanh có tính toàn cầu cao, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế như hàng không, tài chính ngân hàng hay năng lượng. Đó là tư duy toàn cầu hoá có chọn lọc, không theo một khuôn mẫu cứng nhắc mà triển khai linh hoạt theo từng thị trường, từng giai đoạn, kiên trì từng bước một, từ gần đến xa. Ba hình thức chủ đạo trong chiến lược quốc tế hoá của Sovico là: “Xuất khẩu” dịch vụ (đặc biệt trong hàng không), liên doanh - hợp tác chiến lược, và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
“Xuất khẩu” dịch vụ là bước đi dễ tiếp cận, ít rủi ro, và đặc biệt phù hợp với đặc tính của lĩnh vực hàng không, gắn liền với hành trình mở rộng “biên giới mềm” quốc gia. Thông qua các chuyến bay quốc tế, Sovico không chỉ mang dịch vụ vận tải hàng không ra nước ngoài mà còn đưa hình ảnh con người, văn hóa Việt ra thế giới. Tiếp viên người Việt, dịch vụ ẩm thực mang dấu ấn Việt, trang phục truyền thống như áo dài… chính là những công cụ giá trị giúp tăng cường hiệu ứng thương hiệu. Với ý nghĩa đó, việc liên tục mở các đường bay quốc tế mới của Vietjet dường như vượt lên khái niệm đơn thuần về mở rộng thị phần. Mỗi đường bay mới là một “cửa ngõ” kết nối Việt Nam với thế giới không chỉ về con người, mà còn về văn hóa, cơ hội kinh doanh, dòng vốn…


Chuyến công tác của Ban lãnh đạo Vietjet đến Hoa Kỳ từ ngày 8/1 đến 11/1/2025 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ.
Chuyến bay thẳng lần đầu tiên đến Mỹ của Vietjet đầu năm 2025 đã khẳng định năng lực khai thác, quản trị của hàng không Việt Nam, cho thấy sự tin hội nhập toàn cầu của một doanh nghiệp Việt. Đồng thời đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực hàng không, và thậm chí mở ra những cơ hội hợp tác mới trong các ngành như công nghệ, tài chính và đổi mới sáng tạo… Những hợp đồng hợp tác chiến lược với các tập đoàn hàng đầu của Mỹ như Boeing, GE, Pratt & Whitney… từ nhiều năm trước là minh chứng cho việc Sovico đã chuẩn bị kỹ lưỡng về công nghệ, tài chính và quan hệ quốc tế cho lộ trình này.
Dự sự kiện "Friends of Vietnam Summit" ở dinh thự Mar-a-Lago của gia đình Tổng thống Mỹ Donald Trump, bà Nguyễn Thị Phương Thảo trong tà áo dài truyền thống đã khẳng định hãng hàng không Việt sẵn sàng vươn xa, trở thành biểu tượng cho sự tự tin và khát vọng của một Việt Nam đang vươn mình ra thế giới. Tôi nghĩ rằng, đó là tầm vóc của một doanh nhân dân tộc rất đáng để tự hào.
Vietjet là hãng hàng không đầu tiên có đường bay kết nối Việt Nam với 5 thành phố lớn nhất của Australia, khai thác nhiều đường bay nhất giữa Việt Nam và Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Việc mở rộng đường bay dài đến các quốc gia này trong thời gian qua hay mục tiêu mở mới mạng bay đến Mỹ, châu Âu trong năm 2025 càng khẳng định quyết tâm của Sovico trong việc nâng tầm vị thế thương hiệu Việt trên thị trường vận tải hàng không toàn cầu, đưa Vietjet thành hãng bay tầm cỡ liên lục địa. Đáng chú ý, Sovico thực hiện chiến lược này không theo cách đầu tư mạo hiểm, mà tận dụng thế mạnh dịch vụ để “xuất khẩu” một cách hiệu quả, đồng thời xây dựng quan hệ hợp tác dài hạn với các tập đoàn hàng đầu như Boeing, Airbus, GE hay các định chế tài chính lớn để đảm bảo năng lực triển khai và tiêu chuẩn vận hành quốc tế.
Quay trở lại vấn đề hình thức quốc tế hóa, trong lĩnh vực hàng không, bên cạnh việc “xuất khẩu” dịch vụ, khi thị trường mục tiêu cho thấy tiềm năng lớn và đủ cơ sở pháp lý, Sovico chuyển sang hình thức liên doanh hoặc đầu tư trực tiếp. Việc lập Thai Vietjet là ví dụ điển hình cho chiến lược “bản địa hóa có kiểm soát”: Sử dụng đối tác bản địa để đẩy nhanh tiến độ gia nhập thị trường, đồng thời kiểm soát thương hiệu và chất lượng vận hành. Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, việc xây dựng năng lực cạnh tranh quốc tế trở thành yêu cầu cấp thiết.
Một chiếc máy bay Airbus A320 của Thai VietJet Air lăn trên đường băng ở sân bay Suvarnabhumi tại Bangkok, Thái Lan để chuẩn bị khởi hành đi Phuket.
Trong lĩnh vực năng lượng, Sovico hợp tác với đối tác Keppel (Singapore) nhằm khai thác tiềm năng tái tạo năng lượng trên diện rộng ở Việt Nam, phát triển nhiên liệu bền vững cho các lĩnh vực khó có thể giảm phát thải carbon như năng lượng điện, công nghiệp, giao thông hàng hải và hàng không… Các thỏa thuận hợp tác tập trung vào các giải pháp giảm phát thải carbon có thể mở rộng quy mô, bao gồm điện khí hóa các phương tiện và cơ sở hạ tầng sạc điện, hệ thống lưới điện nhỏ thông minh, xử lý rác thải thành năng lượng và mô hình năng lượng như một dịch vụ (EaaS) nhằm đạt mục tiêu giảm khí thải nhà kính ở quy mô lớn, góp phần thúc đẩy chuyển đổi xanh trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, Sovico còn chủ động tiếp cận công nghệ cao thông qua hợp tác với các tập đoàn lớn của châu Âu trong điện gió ngoài khơi, điện mặt trời và các dự án phát triển bền vững, nhằm hướng tới tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong lĩnh vực năng lượng xanh.
Ở mảng tài chính, HDBank - ngân hàng thuộc hệ sinh thái Sovico cũng đi tiên phong trong hợp tác quốc tế. Từ khoảng chục năm trước, HDBank đã thành lập liên doanh HD Saison cùng đối tác Nhật Bản Credit Saison, kết hợp lợi thế am hiểu thị trường nội địa với kinh nghiệm vận hành tài chính tiêu dùng quốc tế. Đây cũng là minh chứng cho việc Sovico biết tận dụng thế mạnh tài chính và công nghệ của đối tác để nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần. Không dừng lại ở thị trường trong nước, HDBank mở rộng hiện diện ra khu vực với việc khai trương văn phòng đại diện tại Yangon, Myanmar từ năm 2019, bước đi mang tính thăm dò nhằm hỗ trợ khách hàng và tìm kiếm cơ hội tại một thị trường đang mở cửa.
Có thể thấy, các hình thức triển khai chiến lược quốc tế hoá của Sovico rất linh hoạt, từ xuất khẩu dịch vụ đến liên doanh và đầu tư trực tiếp, tùy theo mức độ trưởng thành của thị trường và sự sẵn sàng về pháp lý.
Điểm nhấn đặc biệt là, Sovico cũng chú trọng xây dựng năng lực và văn hoá hội nhập cho doanh nghiệp, như phát triển đội ngũ nhân sự đa ngôn ngữ, kết hợp giữa chuyên gia trong nước và quốc tế, duy trì hiện diện tại các diễn đàn toàn cầu để nâng cao ảnh hưởng và khả năng kết nối chính sách.
Quốc tế hóa với Sovico không phải là cuộc đua mở rộng thị trường đơn thuần, mà là tiến trình đầu tư có tính tích lũy về năng lực quản trị, công nghệ và thương hiệu. Họ đang tận dụng rất tốt mạng lưới quốc tế để kêu gọi dòng vốn chất lượng cao, chuyển giao công nghệ tiên tiến, và quan trọng hơn là tạo ra một "hệ sinh thái phát triển" mang chuẩn mực toàn cầu trong các lĩnh vực như hàng không, đô thị xanh, năng lượng tái tạo, logistics…
Chính cách tiếp cận thận trọng, từng bước nhưng nhất quán này giúp Sovico nổi bật như một trong những doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiếm hoi đang xây dựng được vị thế thật sự trên thị trường khu vực và quốc tế, ở tầm vóc kiến tạo cuộc chơi. Câu chuyện, cách thức vươn ra toàn cầu của Sovico chính là bài học thực tiễn có giá trị cho các doanh nghiệp trong nước đang định hướng mở rộng sang thị trường quốc tế, sánh bước trên con đường hội nhập, vốn đã trở thành xu thế tất yếu.
- Tập đoàn Sovico hiện đang là đối tác chiến lược của UNESCO, Liên hợp quốc hướng tới phát triển bền vững cho các mối quan hệ hợp tác đầu tư, phát triển kinh tế tại Việt Nam và toàn cầu. Tổng Giám đốc UNESCO - Bà Audrey Azoulay, đã từng bày tỏ sự trân trọng đối với Sovico, không chỉ vì đây là một tập đoàn kinh tế mạnh mà còn vì sự tiên phong của Sovico trong việc hỗ trợ và thúc đẩy phát triển bền vững. Bà đã nhiều lần khẳng định rằng Sovico là một đối tác quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của UNESCO tại Việt Nam. Ông có bình luận gì thêm không?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Một doanh nghiệp Việt Nam trở thành đối tác chiến lược với tổ chức lớn trên thế giới như vậy đã chứng minh điều gì? Tôi cho rằng đó là dấu mốc danh dự, đồng thời là minh chứng rõ nét cho năng lực hội nhập quốc tế, cũng như sự trưởng thành và uy tín toàn cầu của một doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
Đây là điều rất hiếm và đáng trân trọng. Bởi để đạt được vị thế đối tác chiến lược với những tổ chức toàn cầu hàng đầu như vậy, doanh nghiệp không chỉ cần tiềm lực tài chính mạnh, mà còn phải thể hiện được cam kết lâu dài đối với các giá trị cốt lõi mang tính toàn cầu, như phát triển bền vững, giáo dục, bảo vệ di sản, giảm phát thải và trách nhiệm xã hội. Các sáng kiến của Sovico trong hành trình ấy bao gồm hợp tác chiến lược trong dự án "Trao quyền cho thanh niên và phụ nữ để tăng cường kết nối và lợi ích địa phương tại các Di sản thế giới và Thành phố sáng tạo được UNESCO công nhận ở Việt Nam; phát triển Thủ đô sáng tạo Hà Nội; thúc đẩy mô hình "Trường học hạnh phúc"; các chương trình hỗ trợ văn hóa nghệ thuật cho thanh niên… Ngoài ra, Sovico cũng cam kết tham gia các dự án khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và truyền thông để nâng cao nhận thức cộng đồng về phát triển bền vững.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa mới, cạnh tranh không chỉ nằm ở giá thành mà còn ở giá trị bền vững. Những doanh nghiệp có tầm nhìn quốc tế, thể hiện trong từng hành động cụ thể như Sovico sẽ là lực lượng tiên phong đưa kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng, tự tin hơn trên bản đồ kinh tế thế giới.
Năm 2021, lãnh đạo Tập đoàn SOVICO và đại diện UNESCO trao thỏa thuận hợp tác thực hiện dự án “kết nối các Di sản Thế giới và Thành phố Sáng tạo được UNESCO công nhận ở Việt Nam” dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.



Sau hơn 3 năm thực hiện, kết quả ban đầu của dự án kết nối các Di sản Thế giới và Thành phố Sáng tạo đã được ghi nhận. Các tài năng sáng tạo Việt Nam, đặc biệt là các nhà sáng tạo trẻ, được trao quyền để đóng góp và tác động vào chương trình phát triển mới của các thành phố sáng tạo ở Việt Nam với những sáng kiến và hành động đổi mới. Các thành phố sáng tạo của Việt Nam hợp tác và thúc đẩy mục tiêu của UCCN thông qua các sự kiện đặc trưng cấp quốc gia và khu vực.
- Một trong những yếu tố đã vun bồi nội lực cho Sovico trong chiến lược hội nhập quốc tế, vươn ra toàn cầu là chú trọng đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ, AI, đổi mới sáng tạo trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của Tập đoàn.
Ngay từ đầu, ban lãnh đạo Sovico đã xác định công nghệ và sáng tạo là động lực then chốt để nâng cao năng suất, giảm chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh khi bước ra sân chơi toàn cầu. Thực tiễn ở các lĩnh vực kinh doanh chính của Sovico cho thấy Tập đoàn đã tích cực đầu tư cho chuyển đổi số và liên tục cải tiến mô hình kinh doanh dựa trên công nghệ mới.
Vietjet tiên phong triển khai sinh trắc học trong làm thủ tục bay qua VNeID tại các sân bay lớn, giúp hành khách tiết kiệm thời gian và nâng cao trải nghiệm. Công nghệ tiên tiến cũng được ứng dụng trong quản lý khai thác để tối ưu chi phí vận hành, góp phần phát triển ngành hàng không. Cùng với đó, Vietjet đã thành lập trung tâm đổi mới sáng tạo Innovation Hub nhằm mang thương hiệu Việt Nam ra thế giới.
HDBank cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi số với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động, trải nghiệm khách hàng và thực thi các mục tiêu ESG. HDBank đã đầu tư vào nền tảng ứng dụng và hạ tầng công nghệ, giúp tăng trưởng số lượng người dùng và giao dịch trên các kênh trực tuyến.
Để chủ động, giảm phụ thuộc trong việc ứng dụng công nghệ, Sovico đã tạo ra một “kỳ lân” công nghệ trong hệ sinh thái. Năm 2021, Galaxy Holdings được thành lập, trở thành một mảnh ghép quan trọng trong chiến lược chuyển đổi số của Sovico, với mục tiêu nâng cao năng lực số nội bộ và từng bước cung cấp dịch vụ số cho cá nhân, doanh nghiệp và cả khu vực Chính phủ.
Hiện nay, Galaxy đã nhanh chóng mở rộng hệ sinh thái số: Từ Galaxy Pay – nền tảng fintech thanh toán, đến Galaxy Joy – hệ thống tích điểm hàng không, và Galaxy Technology – trung tâm chuyển đổi số chuyên biệt cho các ngành mũi nhọn như ngân hàng, hàng không, logistics. Dù là mảnh ghép mới, nhưng Galaxy Holdings đã và đang phát triển thành tập đoàn công nghệ số toàn diện với 10 thành viên từ tài chính công nghệ, đến đưa AI vào lĩnh vực y tế, hàng không và các đơn vị kinh doanh khác trong hệ thống.
Theo lộ trình phát triển, giai đoạn 2024 - 2026, Galaxy Holdings sẽ mở rộng cung cấp dịch vụ ra các đối tác bên ngoài hệ sinh thái Sovico. Công ty cũng đề mục tiêu hợp tác với những doanh nghiệp kỹ thuật số có giá trị cao.
Bằng một tầm nhìn toàn cầu và sự kiên định trong chiến lược, doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo xác định công nghệ không chỉ là lĩnh vực đầu tư mang tính thời cuộc, mà còn là trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc góp phần xây dựng năng lực công nghệ tự chủ cho đất nước. Thưa PGS. TSKH. Võ Đại Lược, ông cảm nhận ra sao về tinh thần này?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hiện nay không còn được gọi là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc. Nếu không bắt kịp với cuộc cách mạng số đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình là rất hiện hữu. Muốn tạo ra đột phá, đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững theo những mục tiêu lớn lao đã đặt ra thì khoa học công nghệ phải là mũi nhọn chiến lược, dẫn dắt công cuộc đổi mới lần thứ 2 - Đổi mới mô hình tăng trưởng. Đây là vấn đề được khái quát ở tầm vĩ mô nhưng cũng rất vi mô - ở khía cạnh phát triển của doanh nghiệp. Cuộc chơi toàn cầu hiện nay, sẽ không có chỗ đứng cho doanh nghiệp chúng ta khi chưa làm chủ được công nghệ.
Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia chính là “kim chỉ nam” cho hành động. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đây không chỉ là nghị quyết chính trị mà là chương trình hành động cụ thể để Việt Nam cất cánh. Do đó, việc thực thi phải quyết liệt, nếu triển khai chậm rãi, chúng ta sẽ khó tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Tổng Bí thư cũng nhiều lần chỉ rõ vai trò then chốt của khoa học công nghệ đối với phát triển đất nước. Nếu không có đột phá về lĩnh vực này, Việt Nam khó có thể đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 8% vào năm 2025 và càng không có nền tảng cơ sở để đạt được mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong những năm tới.
Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 khẳng định, kinh tế tư nhân là lực lượng tiên phong góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW. Thực tế những năm qua cho thấy, chỉ có khu vực tư nhân mới có không gian tối ưu cho phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Việc mở ra không gian, tạo thuận lợi cho tư nhân phát triển sẽ thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất lao động, sớm đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển.
Ở góc độ này, có thể khẳng định, sự chủ động đi tắt đón đầu, coi trọng và dấn thân vào lĩnh vực công nghệ của doanh nghiệp tư nhân có vai trò rất quan trọng, thậm chí mang tính quyết định đối với các mục tiêu tạo đột phá về khoa học công nghệ của chúng ta.
Galaxy Holdings có lẽ là một bàn đạp chiến lược, là vũ khí cạnh tranh quan trọng của Sovico trong hành trình của mình. Nhưng nó không dừng lại ở câu chuyện nâng cao năng lực nội bộ để đáp ứng yêu cầu của thời đại mà còn dần trở thành một lĩnh vực hoạt động của tập đoàn này. Tôi cho rằng, những chuyển động vừa qua cho thấy động thái và tầm nhìn rõ ràng của Sovico trong nỗ lực tiên phong dẫn dắt phát triển kinh tế số của Việt Nam và bước vào kỷ nguyên số toàn cầu.
- Galaxy Holdings đã cùng với Ngân hàng số Vikki (Vikki Bank) đầu tư hơn 100 tỷ đồng xây dựng hệ thống phòng Lab của Trung tâm nghiên cứu, đào tạo thiết kế vi mạch và trí tuệ nhân tạo Đà Nẵng (DASC) trong năm đầu tiên, bao gồm tập trung đầu tư trang thiết bị, xây dựng chương trình đào tạo, và chi phí vận hành. Các hoạt động đầu tư phòng Lab hiện đại, trang thiết bị Synopsys Zebu-5 là cam kết mạnh mẽ trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, xây dựng đội ngũ nhân lực bán dẫn và trí tuệ nhân tạo chất lượng quốc tế cho Việt Nam và hỗ trợ sự phát triển của ngành công nghệ cao, ứng dụng các thành tựu này vào ngành tài chính ngân hàng, giúp định hình tương lai của ngành bán dẫn và trí tuệ nhân tạo, qua đó đóng góp tích cực và hiệu quả vào việc thực hiện thành công Nghị quyết 57-NQ/TW trong thời gian tới.
Đáng chú ý, Vikki Bank tiền thân là Ngân hàng Đông Á (DongA Bank), sau khi được chuyển giao bắt buộc, đã trở thành công ty con 100% vốn của HDBank, cũng thuộc hệ sinh thái của Sovico. Nhận nhiệm vụ chuyển giao, HDBank không chỉ góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của hệ thống tài chính - ngân hàng quốc gia mà còn giúp một ngân hàng yếu kém trở thành ngân hàng số thế hệ mới. Qua đó sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp và người dân trên khắp cả nước, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lao động phổ thông tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp và thủ tục đơn giản nhất thông qua kênh số.
Sự phối hợp giữa Vikki và Galaxy Holdings trong đầu tư đào tạo vi mạch – AI tại Đà Nẵng là ví dụ rõ nét về định hướng "công nghệ hóa" toàn diện của Sovico.
Đặc biệt, Vikki Bank đã có hợp tác với DASC nhằm phát triển nhân lực ngành bán dẫn và trí tuệ nhân tạo với mục tiêu chính là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để thúc đẩy sự phát triển công nghệ bán dẫn, blockchain, AI của Việt Nam. Theo đó, Vikki Bank và các đơn vị thành viên trong hệ sinh thái sẽ phối hợp cùng triển khai các chương trình đào tạo - phát triển nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực vi mạch bán dẫn và trí tuệ nhân tạo, phát triển sản phẩm dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội - nhu cầu doanh nghiệp và người dân. Chương trình này nằm trong chuỗi hoạt động của Ngân hàng HDBank khi nhận nhiệm vụ phát triển công nghệ Blockchain Make-in Việt Nam dưới sự chứng kiến của Tổng Bí thư Tô Lâm ngày 15/1/2025.
Tất cả những điều trên dường như khẳng định quyết tâm cũng như chiến lược đầu tư bài bản của Socvico vào đào tạo nhân lực công nghệ cao – một nền tảng quan trọng để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn trong nước. Dưới góc nhìn của ông, nguồn nhân lực quan trọng như thế nào đối với khát vọng công nghiệp bán dẫn của Việt Nam?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Chắc chắn rồi, nguồn nhân lực là không thể thiếu, thậm chí đóng vai trò nền tảng, trụ cột trong việc định vị ngành công nghiệp bán dẫn. Suy cho cùng, sáng tạo bắt nguồn từ yếu tố con người; khoa học công nghệ, AI… cũng đều do con người tạo ra.
Giai đoạn 1 của Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn năm 2050, đặt ra mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư, cử nhân chuyên ngành bán dẫn, với quy mô doanh thu công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam đạt trên 25 tỷ USD/năm. Để đạt được mục tiêu này, cần những doanh nghiệp đủ năng lực, đủ kiên trì và sẵn sàng chịu trách nhiệm trong dài hạn. Đó cũng là điều mà Sovico đang nỗ lực chứng minh.
Sovico đặt mục tiêu đào tạo 10.000 kỹ sư bán dẫn đến năm 2030, tương ứng với gần 20% nhu cầu toàn ngành được nêu trong Chiến lược. Đây là con số rất ấn tượng cho thấy, doanh nghiệp đang chủ động chia sẻ trách nhiệm cùng Nhà nước, góp phần phát triển ngành công nghiệp bán dẫn mang tính chiến lược.
Sovico đặt mục tiêu đào tạo 10.000 kỹ sư bán dẫn đến năm 2030.
Trên thực tế, ngành điện tử viễn thông tại các trường đại học đã phát triển hơn 20 năm, và rất nhiều sinh viên sau đó đã ra nước ngoài học tiếp về bán dẫn. Khi Sovico bắt đầu tiếp cận với lĩnh vực bán dẫn, họ đã phát hiện ra cộng đồng lớn gồm những người Việt đang làm trong ngành bán dẫn ở nước ngoài, ở cả các công đoạn từ cơ bản đến nâng cao. Đa số người Việt nổi bật nhờ khả năng xuất sắc trong các môn khoa học tự nhiên, có thể tham gia vào các công việc chuyên sâu như thiết kế chip. Nhiều du học sinh quay trở về Việt Nam đã thành lập các doanh nghiệp nhỏ, tiến hành tuyển dụng và đào tạo nhân sự ngắn hạn thông qua các chương trình qua các chương trình reskill và upskill, tham gia vào chuỗi thiết kế bán dẫn. Dựa trên những khảo sát đó, Sovico xây dựng các giải pháp đào tạo nhân lực, không chỉ thông qua việc nâng cao kỹ năng, hay đào tạo lại trực tiếp trong thiết kế, phát triển bán dẫn mà còn đưa nhân lực sang đào tạo tại Đài Loan (Trung Quốc) - cái nôi của ngành bán dẫn thế giới.
Nhân sự bán dẫn tại Việt Nam, theo thống kê chưa đầy đủ hiện có khoảng 6.000 người. Nếu có nhiều doanh nghiệp như Sovico tham gia, mục tiêu 50.000 kỹ sư bán dẫn được đặt ra có thể được hiện thực hóa nhanh hơn kỳ vọng.
Trong bối cảnh các tập đoàn toàn cầu như Intel, Amkor, Hana Micron… đang tăng tốc đầu tư vào Việt Nam, vai trò của các doanh nghiệp nội địa như Sovico ngày càng quan trọng hơn. Không chỉ để giữ chân dòng vốn, Sovico còn đặt mục tiêu tham gia vào chuỗi giá trị công nghệ, tạo nền móng cho ngành công nghiệp bán dẫn nội địa. Đầu tư cho công nghệ và đổi mới sáng tạo hiện tại, là sự chuẩn bị bài bản nhất cho sức cạnh tranh trong tương lai.
*****
Lựa chọn đầu tư vào một ngành “vừa khó, vừa dài hạn” như bán dẫn là quyết định không dễ dàng. Nhưng Sovico đã cho thấy rằng, việc định vị vai trò trong các ngành nền tảng là hoàn toàn khả thi nếu có tầm nhìn và cam kết rõ ràng. Trong nỗ lực đó, họ không hướng đến vị trí dẫn đầu mà đang âm thầm xây dựng nền móng cho một ngành công nghiệp mới - nơi Việt Nam có thể từng bước làm chủ và dần có tiếng nói trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong cuộc trao đổi với Reatimes, ông Lê Đăng Dũng - nguyên Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel, hiện là cố vấn cho một số doanh nghiệp tư nhân đang đầu tư vào lĩnh vực bán dẫn, nhận định rằng, việc khu vực tư nhân tham gia vào lĩnh vực bán dẫn, không đơn thuần là một quyết định kinh doanh mà còn mang ý nghĩa chiến lược, thể hiện tinh thần trách nhiệm với quốc gia.
Ông Lê Đăng Dũng – nguyên Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel
Ông cho biết, trước đây, phát triển công nghệ cao gần như là cuộc chơi riêng của các doanh nghiệp nhà nước như Viettel, VNPT... Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp tư nhân chủ yếu phát triển mạnh nhờ hai lĩnh vực là bất động sản và tài chính – ngân hàng. Công nghệ cao gần như bị bỏ ngỏ. Tuy nhiên, thời điểm hiện tại đã đến lúc cần thay đổi tư duy phát triển: “Nếu chúng ta muốn xây dựng một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh dài hạn, thì không thể chỉ dựa vào đất đai hay nguồn vốn tài chính. Công nghệ mới chính là chìa khóa để bứt phá. Và nếu tư nhân không dấn thân, Việt Nam sẽ khó theo kịp các quốc gia đi trước. Đầu tư vào công nghệ cao không phải là cuộc chơi ‘ăn xổi’ mà cần thời gian dài, vốn lớn và sự kiên định. Nhưng doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có khả năng đầu tư vào lĩnh vực đòi hỏi cao về nguồn lực như bán dẫn, AI… nếu có cơ chế chính sách phù hợp để họ đi đúng đường ray”.
*****
- Ngoài câu chuyện khát vọng hay tinh thần trách nhiệm, thì năng lực, sức mạnh tài chính có lẽ cũng là vấn đề cần bàn đến trong việc thực hiện các khát vọng gắn liền với các chiến lược quốc gia như nói trên của Sovico, thưa PGS. TSKH. Võ Đại Lược?
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Tài chính là một nguồn lực rất quan trọng, nhất là đối với phát triển công nghệ. Nhà nước cần khu vực tư nhân đồng hành, trước hết cũng là để san sẻ gánh nặng ngân sách, sau đó mới là câu chuyện năng lực đầu tư, quản trị hay tính năng động sáng tạo… Ở khía cạnh này, tôi cho rằng, Sovico “thừa sức” để làm. Tài chính ngân hàng là một trụ cột kinh doanh của tập đoàn này và sự phát triển đáng kinh ngạc của HDBank trong hệ thống ngân hàng đã cho thấy “tài năng” của họ.
Sovico đầu tư vào HDBank từ năm 2008, với vai trò là cổ đông lớn. Ngân hàng này được thành lập từ thập niên 90 của thế kỷ trước nhưng từ khi có sự tham gia của Sovico mới ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc. Trong 10 năm từ 2008 - 2018, HDBank tăng trưởng tới 20 lần, các năm tiếp theo cũng duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 25 - 30%/năm, góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của toàn ngành ngân hàng.
HDBank đã được cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s xếp hạng tín nhiệm ở mức B1 với triển vọng ổn định tích cực. Ngân hàng cũng được đánh giá chất lượng tài sản tốt, chỉ tiêu tài chính an toàn và bền vững, cung cấp vốn tối ưu cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng bền vững theo định hướng của Chính phủ, điều hành của NHNN, đồng hành cùng doanh nghiệp và người dân Việt Nam.
HDBank ghi dấu ấn với tốc độ tăng trưởng cao nhất toàn ngành nhiều năm liên tục.
Năm 2025, HDBank đặt mục tiêu lợi nhuận vượt 21.000 tỷ đồng, tổng tài sản tăng lên gần 900.000 tỷ đồng, khẳng định khát vọng vươn tầm khu vực. Bà Nguyễn Thị Phương Thảo đã khẳng định khát vọng đưa HDBank trở thành ngân hàng được lựa chọn hàng đầu vì chất lượng, vì tính nhân văn và sự tử tế trong từng hành động.
Việc đầu tư vào hạ tầng và nguồn nhân lực bán dẫn nói trên đã phần nào cho thấy tính nhân văn và sự tử tế ấy.
- Ngoài ra, cùng với năng lực hợp tác quốc tế, tiềm lực tài chính cũng là nền tảng cốt lõi để Sovico đầu tư và phát triển bất động sản đô thị, nghỉ dưỡng cao cấp gắn liền với các giải pháp đô thị hóa bền vững và thông minh, bao gồm quy hoạch tổng thể, quy hoạch cơ sở hạ tầng, quy hoạch không gian công cộng và khu đô thị nhằm tạo nên cộng đồng đáng sống và được kết nối kỹ thuật số.
Bên cạnh đó, Sovico hiện đang là chủ sở hữu của các khu nghỉ dưỡng và khách sạn đẳng cấp quốc tế như Furama Đà Nẵng, Ana Mandara Cam Ranh, Evason Ana Mandara Nha Trang, L'Alya Ninh Vân Bay, Pax Ana Dốc Lết, A&B Central Square, TUI BLUE Nha Trang… Đặc biệt Furama Đà Nẵng là địa điểm tổ chức 2 kỳ họp APEC tại Việt Nam (năm 2006 và 2017) nơi phục vụ các phái đoàn và nguyên thủ hàng đầu thế giới.
Được thiết kế theo chuẩn mực quốc tế hài hoà với phong cách sống địa phương, các sản phẩm bất động sản của Sovico đều mang giá trị nhân văn và môi trường sâu sắc, kết hợp chặt chẽ với các giải pháp về năng lượng xanh.
Đến đây, có một điều dễ nhận thấy đó là sự đặc biệt trong chiến lược đa ngành của Sovico. Các lĩnh vực mà doanh nghiệp đi vào đều có tính bổ trợ lẫn nhau, tạo ra hiệu quả kinh doanh và không tách rời với mục tiêu vươn tầm quốc tế. Sự bổ trợ giữa các lĩnh vực tạo ra sức mạnh cộng hưởng tổng hợp để Sovico có thể tiến bước nhanh hơn. Đơn cử như, khách hàng của Vietjet, hay các dự án bất động sản có thể trở thành khách hàng của HDBank; dự án bất động sản tận dụng giải pháp năng lượng sạch; doanh nghiệp công nghệ tạo nền tảng chuyển đổi số cho toàn hệ thống, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế…
PGS.TSKH. Võ Đại Lược: Đó là những bằng chứng thuyết phục nhất để chứng minh vì sao những doanh nghiệp tư nhân như Sovico sẽ không ngừng phát triển. Chúng ta nhìn thấy sự bền vững ở trong chính cơ cấu tổ chức hoạt động, và quản trị doanh nghiệp. Điều này cũng cho thấy tài năng của doanh nhân, lãnh đạo tập đoàn trong việc tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho sự phát triển vững bền nhất. Với cách làm bài bản như vậy, từ tăng cường hợp tác quốc tế, đến trau dồi năng lực công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh của những lĩnh vực chủ chốt, củng cố nền tảng tài chính…, những tập đoàn đã vươn lên vị trí đầu tàu như Sovico khó có thể bị đánh gục hay trượt dốc trong dài hạn, mà sẽ theo “đường ray tốc độ cao” mà thẳng tiến. Khát vọng hùng cường của Việt Nam cần nhiều hơn các doanh nghiệp có tầm vóc như vậy. Và chúng ta cần khích lệ, tôn vinh họ, để tinh thần kinh doanh, khát vọng dân tộc của những doanh nghiệp đầu tàu này được lan tỏa mạnh mẽ hơn, tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong cộng đồng doanh nghiệp nói chung, theo hướng cùng nhau tiến lên.
Tôi cho rằng, trong vấn đề này, báo chí có vai trò rất quan trọng. Các bạn cần chỉ ra được những mô hình tốt, làm rõ được những chiến lược, khát vọng của doanh nghiệp, doanh nhân thay vì hạ bệ hay soi mói họ. Thương trường cũng khốc liệt như chiến trường vậy. Mọi thứ không phải lúc nào cũng thuận lợi. Đôi khi sẽ có những gập ghềnh, những thất bại - như những hòn sỏi nhấp nhô trên mặt đường. Nhưng nếu chúng ta chỉ nhìn vào những “hòn sỏi” đó, mà không chú ý đến cả chặng đường dài hay những nỗ lực, khát vọng lớn lao hơn của doanh nghiệp thì sẽ vô tình cản trở họ tiến xa hơn và khó trở nên “trường tồn”.
Với doanh nghiệp, câu chuyện lợi nhuận luôn là vấn đề quan trọng, đó là thước đo cho hiệu quả kinh doanh, phải có lợi nhuận thì doanh nghiệp mới tồn tại được. Nhưng để bền vững, tinh thần của một tập đoàn tư nhân không đơn thuần tập trung vào tầm vóc kinh tế, mà quan trọng không kém là những giá trị bền vững, lan tỏa lợi ích cho quốc gia và quốc tế được tạo ra trong hành trình phát triển. Nhìn vào câu chuyện của Sovico, có thể nhận thấy rõ điều này.
Sự trưởng thành của khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là biểu hiện của một nền kinh tế năng động - đó còn là thước đo cho tầm vóc của một quốc gia hiện đại.
Cần tạo động lực cho doanh nghiệp Việt bứt phá và hình thành nên nhiều tập đoàn kinh tế lớn mạnh, trở thành những "quả đấm thép" thật sự, góp phần nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong khu vực lẫn trên thế giới. Càng có nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân lớn thì Việt Nam sẽ càng phát triển, tận dụng được cơ hội chưa từng có như hiện nay để vững vàng bước vào kỷ nguyên mới. Tinh thần, hào khí trước và trong lễ kỷ niệm 50 năm đất nước thống nhất vừa qua đã cho thấy niềm tự hào, sự đồng lòng của cả dân tộc. Chúng ta cùng kỳ vọng vào giai đoạn bứt phá của nền kinh tế, cùng với đó, khát vọng về một đất nước phồn vinh sẽ sớm thành hiện thực.





Được thiết kế theo chuẩn mực quốc tế hài hoà với phong cách sống địa phương, các sản phẩm bất động sản của Sovico đều mang giá trị nhân văn và môi trường sâu sắc, kết hợp chặt chẽ với các giải pháp về năng lượng xanh.
- Vâng, từ những phân tích của chuyên gia, có thể khẳng định, không có gì mạnh bằng khát vọng dân tộc!
Trân trọng cảm ơn PGS.TSKH. Võ Đại Lược đã dành cho Reatimes một cuộc trò chuyện sâu sắc và nhiều giá trị về hành trình một doanh nghiệp tư nhân tầm vóc, đại diện cho khát vọng cống hiến và tinh thần đổi mới sáng tạo trong 40 năm Đổi mới của đất nước. Với những nền tảng đã được tạo dựng, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, những tập đoàn đang vươn mình mạnh mẽ như Sovico sẽ có thể tạo ra những đột phá chiến lược cho nền kinh tế trong kỷ nguyên mới này, nhất là với nỗ lực mở rộng “biên giới mềm” quốc gia thông qua chiến lược quốc tế hóa thấm đẫm tinh thần dân tộc.
Xin kết lại bài viết này bằng chia sẻ tâm huyết và cũng là lời kêu gọi đầy cảm hứng của doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo:
“Tập đoàn Sovico và các doanh nghiệp của chúng tôi như Vietjet sẽ tiếp tục nỗ lực, đóng góp bền bỉ cho hàng không và du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững. Chúng tôi tin rằng phía trước là tương lai tươi sáng cho kinh tế Việt Nam. Với tinh thần tiên phong của hàng không, du lịch và các doanh nhân dân tộc, chúng ta hãy cùng hành động để tương lai ấy đến gần hơn.
Khi doanh nhân Việt có khát vọng cống hiến, có lòng tự tôn dân tộc như doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc và có trách nhiệm, sứ mệnh làm cho khách hàng, xã hội văn minh, tốt đẹp hơn, chúng ta sẽ có động lực làm giàu giá trị Việt và lan tỏa ra thế giới. Đó là sẽ nguồn cảm hứng mãnh liệt của doanh nghiệp, doanh nhân Việt”.
Doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo tại sự kiện khánh thành Saigon Marina IFC của Sovico- một trong 80 công trình trọng điểm nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh. Đây được xem là cột mốc quan trọng trong tiến trình xây dựng Trung tâm Tài chính Quốc tế TP.HCM. Công trình sẽ là “điểm hẹn” của các ngân hàng, tập đoàn công nghệ, logistics và hơn 10.000 chuyên gia, song song với việc ra mắt ứng dụng ngân hàng số Di HDBank và dự án ngân hàng lõi thế hệ mới.