Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở Vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định, tiếp tục khơi dậy tiềm năng, lợi thế và cơ hội phát triển, đổi mới và tăng cường liên kết vùng để tạo động lực phát triển cho các địa phương và toàn vùng; khai thác hiệu quả vị trí đặc biệt của vùng để tiếp cận, hình thành các thị trường lớn, tham gia sâu hơn các chuỗi cung ứng, sản xuất toàn cầu; giữ gìn bản sắc văn hóa Đồng bằng sông Hồng.
Phát huy tiềm năng, lợi thế vượt trội
Vùng Đồng bằng sông Hồng là một trong 6 vùng kinh tế - xã hội của cả nước, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và là một trong 4 vùng động lực phát triển kinh tế gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, được phân thành 2 tiểu vùng là: Tiểu vùng Bắc Đồng bằng sông Hồng gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên; Tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng gồm 4 tỉnh: Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Là vùng đất màu mỡ và giàu tiềm năng phát triển, có truyền thống lịch sử văn hiến, cách mạng, anh hùng, Vùng Đồng bằng sông Hồng có nền văn hóa lâu đời, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể quý giá. Đồng thời, đây cũng là trung tâm hàng đầu về y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ với đội ngũ trí thức giỏi và đông đảo lực lượng lao động có chất lượng cao; là cái nôi đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực cho cả nước với nhiều trường đại học, trung tâm nghiên cứu có uy tín.
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng, ngày 14/9/2005, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW; ngày 28/10/2011 Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Kết luận số 13-KL/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và thời kỳ 2011-2020.
Qua 17 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị các khóa IX và XI, các cấp ủy đảng, chính quyền, nhân dân trong vùng đã phát huy truyền thống văn hiến, cách mạng, anh hùng vẻ vang và những tiềm năng, lợi thế vượt trội, nhất là về nguồn nhân lực, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, liên tục phấn đấu đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng. Quy mô kinh tế của vùng luôn được mở rộng; tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước tăng từ 26,9% năm 2010 lên 29,4% năm 2020. Thu nhập bình quân đầu người cao hơn 1,3 lần so với bình quân chung cả nước. Tổng thu ngân sách nhà nước của vùng chiếm tới 32,7% tổng thu ngân sách của cả nước, tốc độ tăng thu bình quân là 16,7%/năm. Tổng vốn đầu tư xã hội gấp 19,7 lần năm 2005 và chiếm 35,1%, đứng đầu cả nước. Số lượng đô thị vùng tăng nhanh, tỷ lệ đô thị hóa của vùng đến năm 2021 đạt 41%.
Mỗi tỉnh, thành phố trong vùng đã nhận diện và khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế vượt trội của địa phương, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế-xã hội và mọi mặt đời sống xã hội; đồng thời nỗ lực hướng tới các mục tiêu phát triển cao hơn, toàn diện hơn.
Với tiềm năng lớn, là trung tâm “đầu não” về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học giáo dục của cả nước, Hà Nội đã xác định vai trò là đầu tàu kinh tế, động lực tăng trưởng của cả nước, luôn tiên phong với những mô hình kinh tế mới, cách làm sáng tạo.
Mục tiêu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2025 cao hơn mức tăng bình quân chung của cả nước; GRDP giai đoạn 2026 - 2030 tăng 8,0 - 8,5%/năm; GRDP bình quân đầu người đạt 12.000 - 13.000 USD. Tầm nhìn đến năm 2045: Thủ đô Hà Nội là thành phố kết nối toàn cầu, có mức sống và chất lượng cuộc sống cao.
Nằm trong vùng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, gắn với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tỉnh Bắc Ninh khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh và vận dụng linh hoạt các chính sách của Trung ương, địa phương, từng bước vươn lên trở thành cực tăng trưởng quan trọng của Vùng Đồng bằng sông Hồng. Đến nay, Bắc Ninh đã cơ bản là một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước, là 1 trong 14 tỉnh, thành phố hoàn thành xây dựng nông thôn mới... Bắc Ninh trở thành cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Thủ đô, đóng góp quan trọng vào mức tăng trưởng chung của cả nước, trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế cả nước.
Với thế mạnh của vùng đất Phố Hiến có truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời, nằm ở trung tâm Đồng bằng Bắc Bộ, tỉnh Hưng Yên nắm bắt những tiềm năng, lợi thế, tỉnh phấn đấu đến năm 2030 sẽ trở thành tỉnh có trình độ phát triển ở mức khá của Vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước, theo hướng trở thành một đô thị thông minh, xanh, môi trường sống tốt, kết cấu hạ tầng hiện đại.
Với lợi thế nằm ở vị trí địa chiến lược là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội, gần nguồn nhân lực chất lượng cao, các cảng hàng không và cảng biển trọng điểm của vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước, tỉnh Hà Nam tập trung phát triển 4 động lực tăng trưởng quan trọng: Công nghiệp chế biến chế tạo công nghệ cao, đô thị, dịch vụ và nông nghiệp hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, để khai thông, khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế cho sự phát triển chung của vùng và cả nước.
Được ví “là đất nước Việt Nam thu nhỏ”, Quảng Ninh có vị trí chiến lược có một không hai và tiềm năng nổi bật về phát triển kinh tế biển. Trong các chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước, Quảng Ninh được xác định là trung tâm kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng, là trung tâm kinh tế mạnh trong chiến lược biển Việt Nam và trong chiến lược “hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt - Trung, trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, nằm trong khu vực trung chuyển giao lưu hàng hóa, khoa học công nghệ lớn giữa Đông Bắc Á - Đông Nam Á.
Để phát huy có hiệu quả vị trí địa lý thuận lợi, góp phần tạo sự phát triển ổn định chung cho toàn Vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thành phố Hải Phòng xác định mục tiêu xây dựng thành phố thành trung tâm kinh tế mạnh của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ; tăng cường hợp tác liên tỉnh, phối hợp giữa Hải Phòng với các tỉnh, thành phố khác trong vùng từ khâu nghiên cứu, hình thành dự án, phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ…
Thực tế cho thấy, kinh tế - xã hội Vùng Đồng bằng sông Hồng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vượt trội và vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng. Trình độ phát triển giữa các địa phương trong vùng, giữa các tiểu vùng còn có sự chênh lệch đáng kể...
Việc ban hành Nghị quyết mới nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, có tính đột phá trong công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện, bền vững Vùng Đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn phát triển mới, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của cả nước.
Kết nối, liên kết vùng để phát triển
Để thực hiện có kết quả Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm của cả nước, của toàn vùng, của từng địa phương trong vùng, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Xác định rõ đây là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, chứ không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của vùng và các địa phương trong vùng. Đồng thời, phải nhận thức thật đúng và giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa phát triển vùng và phát triển chung của cả nước: Cả nước vì Vùng và Vùng vì cả nước.
Nghị quyết đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng; phát triển kinh tế vùng; phát triển hệ thống đô thị bền vững và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Về thể chế liên kết vùng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Trần Sỹ Thanh đề nghị Trung ương, Chính phủ, Quốc hội sớm ban hành cơ chế điều phối liên kết phát triển vùng; thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới vượt trội, có tính cạnh tranh quốc tế cao nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng cũng như tam giác động lực tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Hành lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc) - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh...
Trước mắt, các ban, bộ, ngành Trung ương tiếp tục quan tâm rà soát, đánh giá các chính sách thi hành Luật Thủ đô, đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù trong quá trình xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi) cũng như Quy hoạch Thủ đô và điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đang trong quá trình xây dựng.
Khẳng định các quan điểm, nhận thức và tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết 30-NQ/TW đã bổ sung và phát triển những quan điểm mới phù hợp với bối cảnh mới, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Bình Nguyễn Thị Thu Hà đề nghị, Trung ương có cơ chế chỉ đạo, phối hợp, thống nhất quan điểm phát triển toàn diện, bền vững cho cả vùng. Từ đó tạo sự liên kết trong xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển của từng tỉnh, thành phố, phát huy thế mạnh riêng, tạo sức mạnh chung, đảm bảo đồng bộ, hài hòa, hiệu quả, không xung đột, chia cắt, tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của các tỉnh, thành phố thuộc Vùng Đồng bằng sông Hồng.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng cho rằng, ngành Văn hóa cũng như toàn bộ các địa phương trong khu vực cần phải quán triệt các quan điểm lớn, từ đó nhận diện sâu sắc hơn về những tiềm năng thế mạnh văn hóa của vùng. Theo đó, sản phẩm du lịch phải mang tầm dầu ấn văn hóa. Tập trung xác định Thủ đô sẽ là trung tâm để kết nối, liên kết vùng để phát triển, liên kết các sản phẩm du lịch.
Tiếp tục phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế vượt trội của vùng, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đề xuất, ban hành các cơ chế, chính sách có tính đột phá, khả thi để đẩy mạnh phát triển công nghiệp vùng theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ít phát thải khí nhà kính, có khả năng cạnh tranh và giá trị gia tăng cao, tham gia sâu, toàn diện vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu.
Nghị quyết số 30-NQ/TW là sản phẩm kết tinh từ trí tuệ tập thể, là kết quả tổng hợp từ các Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW của 11 địa phương trong vùng và 20 bộ, ngành. Nghị quyết số 30-NQ/TW sẽ là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng để các bộ, ngành và các địa phương trong Vùng Đồng bằng sông Hồng ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm khai thác tốt hơn nữa các tiềm năng, lợi thế, điều chỉnh, bổ sung nguồn lực, tạo ra những “cú hích” phát triển bứt phá mạnh mẽ hơn nữa./.