Techcombank và “cái bắt tay thời cuộc”
- Thưa ông, nhìn vào kết quả hoạt động của các ngân hàng thời gian qua, ông có ấn tượng với sự phát triển của ngân hàng nào?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Tôi thực sự ấn tượng với sự tăng trưởng và lớn mạnh của Techcombank.
Đến giữa năm 2020, bất chấp những khó khăn chung của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, Techcombank đã lọt vào top 5 ngân hàng lớn nhất của Việt Nam, có tổng tài sản xấp xỉ 400 nghìn tỷ đồng.
Đây cũng là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất của Việt Nam.
Bất kỳ nền kinh tế đang phát triển nào cũng cần đến những nhà băng có hệ số an toàn vốn vững chắc, và Techcombank là một ngân hàng như vậy.
Vì vậy, để có thể vươn lên mạnh mẽ hơn nữa, trong hành trình trở thành ngân hàng thương mại số 1 của Việt Nam, họ phải có một chiến lược phát triển mới so với giai đoạn trước, khi còn là ngân hàng cấp trung.
Khách hàng giao dịch tại Techcombank
Đó là chiến lược để trở thành ngân hàng hàng đầu, có đủ khả năng dẫn dắt những “cuộc chơi” lớn. Và ngân hàng số 1 thường tập trung toàn bộ hoạt động trên ba lĩnh vực chính: Một là, cho vay doanh nghiệp lớn; hai là, hoạt động dịch vụ tài chính cho doanh nghiệp và kinh doanh nguồn vốn (ngoại tệ, hoạt động trên thị trường phái sinh); ba là, tài trợ thương mại - xuất nhập khẩu. Cả ba lĩnh vực này, Techcombank đều đang hướng tới và có tốc độ tăng trưởng tốt.
- Điều gì khiến Techcombank có được sự bứt tốc như vậy? Và điều gì để Techcombank có thể giữ được và tăng tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới, thưa chuyên gia?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Đối với Techcombank, theo quan sát của tôi thời gian qua và dự báo trong những năm tới đây, ngân hàng này chắc chắn sẽ tiếp tục hướng vào các doanh nghiệp lớn, có quan hệ truyền thống tốt, ví dụ như Vingroup, Sun Group, Masan Group. Đó đều là những tập đoàn có liên quan nhiều đến thị trường bất động sản, thương mại, dịch vụ, vui chơi giải trí, sản xuất hàng tiêu dùng, đặc biệt là thực phẩm.
Trên thực tế, đây cũng là những doanh nghiệp có đòi hỏi rất cao về công nghệ. Ví dụ như công nghệ cơ khí chế tạo của VinFast, hoặc công nghệ chế biến thực phẩm của Masan. Và có thể nói, đây là hai công nghệ cao cấp nhất trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Công nghiệp sản xuất ô tô hiện đang dẫn đầu về công nghệ của toàn cầu. Cũng là ngành cạnh tranh công nghệ quyết liệt nhất hiện nay.
Làm thế nào để Techcombank có thể tài trợ cho các hoạt động sản xuất, nhưng đồng thời cũng tài trợ được cho các hoạt động về nghiên cứu, phát triển công nghệ, để đảm bảo rằng, các doanh nghiệp mà họ tài trợ cho sản xuất có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt và tồn tại được lâu dài.
Tôi lấy ví dụ, các cải cách công nghệ có liên quan đến ô tô như điện tử, tự động hóa, luyện kim…, đều là những hoạt động cần nguồn lực tài chính rất lớn từ các ngân hàng. Ở các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản hay vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), Chính phủ có sự tập trung nguồn lực tài chính từ các ngân hàng lớn nhất vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong tương lai, có thể VinFast sẽ phát triển những công nghệ mới, như chế biến máy động lực cho ngành xây dựng, cho nông nghiệp, hoặc đóng tàu, đầu máy, toa xe… Có như vậy, VinFast mới có thể phát triển bền vững, trở thành chỗ dựa cho ngân hàng Techcombank phát triển dài hạn, trở thành ngân hàng lớn nhất của Việt Nam.
- Nói về định hướng tập trung của ngân hàng, ông Hồ Hùng Anh, Chủ tịch Techcombank cho biết, sẽ cân nhắc lựa chọn lĩnh vực tốt nhất để tham gia mà không dàn trải. Đúng như ông vừa phân tích, Techcombank không phục vụ khách hàng đại trà, mà lựa chọn khách hàng lớn trên thị trường, có vị thế và được xem xét cẩn trọng. Điều này có ý nghĩa như thế nào đối với tương lai của Techcombank, thưa ông?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Nhìn chung, nếu ngân hàng tiếp cận nhiều khách hàng và nhiều lĩnh vực mà không kiểm soát được rủi ro thì sẽ dễ nhận lấy thất bại.
Phương châm của ông Hồ Hùng Anh là ngân hàng chỉ lựa chọn một số khách hàng tốt. Đơn cử, trong lĩnh vực vui chơi giải trí, Sun Group và Vingroup chiếm 70% thị phần, Techcombank không cần thiết phải mở rộng các khách hàng khác, thay vào đó, chỉ cần tập trung tốt vào nhóm này.
Tôi rất đồng ý với quan điểm, cần tập trung trong việc lựa chọn, thay vì làm việc với 10 khách hàng, ngân hàng chỉ cần tập trung vào 3 khách hàng tốt nhất, lớn nhất để kiểm soát được rủi ro.
Việc tập trung vào một số lĩnh vực như vậy không những có nhiều cơ hội tăng lợi nhuận, mà còn giảm thiểu được rủi ro, khi kiểm soát được các hoạt động tín dụng một cách dễ dàng hơn. Người đứng đầu Techcombank có tầm nhìn rất tốt, khi nhận ra và hợp tác với các doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài chính mạnh, đệm tài chính an toàn. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng, những ngành đó có rủi ro lớn, bởi cạnh tranh rất khốc liệt.
Có hai vấn đề được đặt ra là: Thứ nhất, Techcombank vẫn kiên định với việc tăng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn trên tổng tiền gửi khách hàng (CASA) chính là cơ sở để đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay. Việc kiểm soát rủi ro của ngân hàng thực hiện trên Basel II. Hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) tại Techcombank đang cao nhất trong hệ thống ngân hàng.
Và hai là, cần thêm những sự hỗ trợ từ Chính phủ để bảo vệ thị trường nội địa, thúc đẩy, khuyến khích ngành cơ khí chế tạo có thể xuất khẩu được.
- Ngoài lĩnh vực vui chơi giải trí, có vẻ như ông Hồ Hùng Anh muốn Techcombank phát triển về FMCG (hàng tiêu dùng nhanh hoặc hàng hóa đóng gói tiêu dùng), nhất là khi hợp tác chiến lược và toàn diện với Tập đoàn Masan – một trong những tập đoàn lớn nhất Việt Nam trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm? Đó có phải là hướng đi đúng không, thưa chuyên gia?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Ngành chủ đạo mà Techcombank hướng vào tài trợ, đó là chế biến thực phẩm.
Nhiều khi cứ tưởng chế biến thực phẩm là đơn giản, nhưng thực tế lại vô cùng phức tạp. Ở đây, có những đòi hỏi khắt khe về an toàn thực phẩm. Nếu tiêu thụ nội địa, mức độ khắt khe có thể chưa cao, nhưng để xuất khẩu được, đòi hỏi sự kiểm soát chặt chẽ hơn rất nhiều. Và ở một số nước, họ dựa vào những công nghệ mới hoặc sự liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài để có được công nghệ sản xuất thực phẩm an toàn, quy mô lớn, sảm phẩm có thể xuất khẩu được. Như vậy, đầu tư vào chế biến thực phẩm là bước đi đúng để phát huy thế mạnh của Việt Nam - một nước nông nghiệp. Song, nông nghiệp mà không có công nghệ thì không thể chế biến để xuất khẩu được.
Do đó, cần có một ngân hàng để hỗ trợ mạnh cho các doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực này. Đó là sự hỗ trợ toàn diện, từ khâu nghiên cứu phát triển, đầu tư công nghệ, đào tạo nhân lực, cho đến chế biến – xuất khẩu. Nói thì đơn giản, nhưng một ngân hàng nhảy vào những lĩnh vực như vậy ở Việt Nam cũng hiếm. Chính xác hơn là chưa có một ngân hàng nào dám nhảy vào lĩnh vực gai góc như vậy.
Có một số cơ sở cho thấy những bước đi vào lĩnh vực này của Techcombank là đúng hướng.
Trước hết, sau hơn 20 năm hình thành và phát triển, đến nay đã có 98% số hộ gia đình Việt Nam hàng ngày đang sử dụng ít nhất một sản phẩm Masan. Đó là niềm tự hào, nhưng Masan có khát vọng lớn hơn, trở thành “Niềm tự hào Việt Nam” bằng cách đưa nông sản Việt vươn ra thị trường thế giới. Để thực hiện khát vọng này, Masan đã đầu tư nền tảng nông nghiệp công nghệ cao - xu hướng tối ưu nhất mà các cường quốc nông nghiệp trên thế giới đang áp dụng.
Gần đây nhất, Masan tiên phong đầu tư ứng dụng công nghệ tiên tiến thế giới, hoàn thiện chuỗi nông nghiệp khép kín 3F “từ trang trại đến bàn ăn” vào chuỗi giá trị tích hợp: Sản xuất thức ăn chăn nuôi - Trang trại chăn nuôi kỹ thuật cao - Chế biến thực phẩm công nghệ châu Âu - Hệ thống phân phối và xây dựng nhãn hiệu hàng hóa. Masan hiện đang sở hữu nhà máy chế biến thịt mát mang thương hiệu MEAT Deli tại Việt Nam đến thời điểm này và hiện thực hóa “giấc mơ thịt sạch”, phục vụ 100 triệu người tiêu dùng Việt Nam được ăn thịt ngon, đạt chuẩn quốc tế với giá hợp túi tiền.
Nhà máy chế biến thịt MEAT Hà Nam cũng là đơn vị đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam cho đến nay được chứng nhận tiêu chuẩn toàn cầu BRC trong lĩnh vực chế biến thịt tươi. Vừa qua, ứng phó với dịch tả lợn châu Phi, Masan xây dựng một hệ thống kiểm dịch, phòng thủ 3 tuyến được vận hành xuyên suốt trong chuỗi liên kết từ khâu chăn nuôi, giết mổ và chế biến, phân phối thịt mát MEAT Deli đảm bảo an toàn phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Có thể thấy, đầu tư nền tảng công nghệ cao vào nông nghiệp, hoàn thiện hệ sinh thái trồng trọt và chăn nuôi, mới đây nhất là sáp nhập VinCommerce, VinEco là những bước đi quan trọng để Masan khẳng định tham vọng đưa nông sản Việt tham gia hệ thống cung ứng toàn cầu.
Cơ sở thứ hai là, tôi được biết, ông Nguyễn Đăng Quang luôn mong muốn thúc đẩy đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào chế biến thực phẩm để cung cấp đến tay người tiêu dùng từ thực phẩm tươi đến thực phẩm chế biến, với tiêu chí chất lượng, an toàn, thân thiện môi trường và giá cả hợp lý. Đây cũng là bước đi quan trọng để Masan xây dựng và phát triển nông sản thương hiệu Việt, sẵn sàng tham gia hệ thống cung ứng toàn cầu.
Cơ sở thứ ba là, chính Thủ tướng cũng nhận định rằng, doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao không phải ngẫu nhiên, mà bởi kinh tế vĩ mô ổn định, điều tra mới nhất cho thấy tầng lớp trung lưu hiện nay tại Việt Nam khoảng 15 triệu người, chiếm 15% tổng dân số nhưng tương lai sẽ tăng lên trên 50%. Đó là xu hướng để các doanh nghiệp có động lực, đón đầu để đầu tư sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Thủ tướng cũng trân trọng hướng phát triển của Masan, khi doanh nghiệp này toàn tâm toàn sức đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam, thị trường Việt Nam và định hướng xuất khẩu sang các nước khác.
Tôi cho rằng, khát vọng của ông Hồ Hùng Anh hay khát vọng của ông Nguyễn Đăng Quang, chính là khát vọng đưa nông sản Việt sẵn sàng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Đó là những hành động bắt tay nhau cùng hiện thực hóa mục tiêu trong ngành nông nghiệp, không chỉ phục vụ thị trường 100 triệu người tiêu dùng Việt Nam mà hướng tới xuất khẩu.
Khi Masan hoàn thiện hệ sinh thái trồng trọt và chăn nuôi, cũng như thể hiện sứ mệnh “dốc sức toàn tâm toàn lực” vào nền nông nghiệp Việt Nam, có sự chung sức của Techcombank, tôi tin rằng, khát vọng đó sẽ sớm trở thành hiện thực.
- Định hướng phát triển trên của Techcombank có phù hợp với sự phát triển của Việt Nam hay không, thưa chuyên gia?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Với định hướng trên, tôi cho rằng, ông Hồ Hùng Anh muốn Techcombank trở thành ngân hàng số 1 về công nghiệp và dịch vụ. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với định hướng hiện đại, là công nghiệp hóa, dịch vụ hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, khi lựa chọn một đối tượng phục vụ như vậy, Techcombank cũng phải nghiên cứu kỹ các khía cạnh về kinh tế vĩ mô, về chính sách. Cũng phải hỗ trợ, đầu tư cho các cơ quan nghiên cứu của mình tìm hiểu, phân tích về mức độ cạnh tranh của những lĩnh vực đó trên thị trường quốc tế và nội địa, với mục tiêu xuất khẩu được các sản phẩm ra bên ngoài.
Techcombank có thể tăng cường hỗ trợ cho các tập đoàn công nghiệp thực hiện những nghiên cứu toàn diện cả vĩ mô và vi mô, cả nội địa và xuất khẩu, giúp cho các tập đoàn đó có đường hướng phát triển rõ ràng, cũng là cách giúp ngân hàng quản trị rủi ro trong trung hạn và dài hạn tốt hơn. Bởi những lĩnh vực Techcombank đang tập trung cho vay thường là đầu tư trung và dài hạn.
- Nhưng, còn một lĩnh vực khác, mà người ta đang nghĩ ông Hồ Hùng Anh quá tự tin, khi vẫn định hướng ngân hàng cho vay bất động sản, thậm chí còn tăng cường tài trợ cho những tập đoàn bất động sản lớn. Trong khi đó, thị trường bất động sản đang gặp khó cơ mà?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Tại sao không thể tự tin? Nhiều nhà quản trị ngân hàng nói với tôi rằng, ngân hàng không cho vay bất động sản thì cho vay cái gì? Bất động sản là lĩnh vực có cơ hội lớn và dài hạn. Một nghiên cứu cho thấy, độ mở của nền kinh tế Việt Nam là rất cao, thuộc nhóm hàng đầu trên thế giới. "Mảnh vải" còn lại, có nhiều cơ hội trong cuộc cạnh tranh khốc liệt để giành thị trường của Việt Nam khi chưa mở toang, là bất động sản.
- Dường như lý do để Techcombank tập trung cho vay bất động sản không chỉ có vậy?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Phải thẳng thắn rằng, tài trợ cho vay bất động sản cũng là tài trợ cho một trong những lĩnh vực được bảo hộ nhiều nhất. Hàm ý là, về cơ bản, không có các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà ưu tiên cho các nhà đầu tư Việt Nam. Đây là lĩnh vực có lợi thế cho các doanh nghiệp nội địa, nhất là các tập đoàn có uy tín lớn, như Vingroup, Sun Group. Tuy nhiên, bất động sản phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng thu nhập của người dân và các chỉ tiêu an toàn kinh tế vĩ mô, tài chính tiền tệ, sự an toàn về dịch bệnh – trật tự xã hội, an ninh quốc phòng.
Hiện tại, có thể phân ra hai phân khúc có xu hướng phát triển tương đối nhanh, đó là bất động sản nhà ở và bất động sản công nghiệp. Về lâu dài, có một phân khúc khác sẽ phát triển khá nhanh, đó là bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng – mỏ vàng tiềm năng rất lớn của Việt Nam – sẽ được phát huy khi đi sâu vào kinh tế dịch vụ và thu hút khách quốc tế.
Một đất nước có lợi thế về du lịch như Việt Nam, nhưng lượng khách quốc tế và mức chi tiêu của du khách còn quá thấp, nhất là khi so với những quốc gia trong khu vực không có những tiềm năng bằng Việt Nam, như Thái Lan, Singapore, Indonesia…
Việt Nam có quá nhiều lợi thế về danh lam thắng cảnh, di sản thế giới, văn hóa dân tộc thiểu số, ẩm thực Á Đông… là những cơ sở để bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng có tiềm năng tăng trưởng dài hạn.
Tuy nhiên, các lĩnh vực trên đều cần đến những nhà tài trợ cho vay, đó là những ngân hàng lớn và có tầm nhìn như Techcombank. Bởi, thị trường còn gặp quá nhiều khó khăn, nhất là khi nhà đầu tư thiếu vốn, vướng các thủ tục về đầu tư, đấu thầu, giải phóng mặt bằng. Nếu không có những nhà tài trợ trong trung và dài hạn, làm xong thủ tục trong vài ba năm, doanh nghiệp có thể hết vốn để phát triển.
Hay như bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng, vừa đầu tư, vừa phải chờ đợi cơ hội từ khách hàng và việc tháo gỡ pháp lý cho thị trường. Đây cũng là lĩnh vực tài trợ an toàn về phương diện tài sản, an toàn khi thị trường được bảo hộ. Nhưng, sẽ gặp phải rủi ro khi an ninh không được đảm bảo, và đòi hỏi lượng vốn trung và dài hạn rất lớn. Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước lại đang có những khống chế về cho vay bất động sản.
- Đúng như ông phân tích, cho vay lĩnh vực này còn nhiều rủi ro nhất định. Thậm chí, nhiều cổ đông của Techcombank còn lo ngại thị trường này sẽ rơi vào trạng thái đóng băng.
TS. Lê Xuân Nghĩa: Thị trường bất động sản đóng băng, hay bong bóng là vấn đề của kinh tế vĩ mô, là vấn đề cần giải quyết của Chính phủ, có liên quan đến chu kỳ kinh tế, thậm chí có những rủi ro không thể dự đoán trước, ví dụ như Covid-19.
Trong hoạt động của Chính phủ, bao giờ cũng có một chương trình bảo vệ thị trường bất động sản, bởi đây là thị trường tài sản rất lớn. Và thị trường này có liên quan trực tiếp, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của hệ thống ngân hàng, dưới dạng tài sản đảm bảo. Vì thế, lãnh đạo Chính phủ trong nhiệm kỳ của mình bao giờ cũng đặt ra vấn đề: Cần có nghiên cứu sâu, dự báo toàn diện và đề ra giải pháp bảo đảm cho sự phát triển bền vững, lành mạnh của thị trường bất động sản trong trung và dài hạn. Tôi được biết, Techcombank cũng có tham gia phối hợp để nghiên cứu vấn đề này khá kỹ càng.
Tuy nhiên, có một vấn đề khác cho thấy quyết định của ông Hồ Hùng Anh là đúng, khi tư duy kinh doanh hiện đại là tư duy tài sản. Cho dù hoạt động của thị trường bất động sản có thể gặp những rủi ro, nhưng với tư cách tài sản nền tảng là nhà đất, một dạng tài sản đảm bảo cực kỳ quý hiếm, nên vào một thời điểm nhất định nào đó, ví dụ như dịch bệnh Covid-19 hay khó khăn về thủ tục hành chính, thị trường có thể đi xuống, nhưng về lâu dài chắc chắn sẽ đi lên. Ở Việt Nam điều đó càng rõ ràng hơn, khi đất chật, người đông, mật độ dân cư cao, tốc độ đô thị hóa rất nhanh.
Dựa trên tư duy tài sản, là phương pháp của những người kinh doanh lỗi lạc. Việc ông Hồ Hùng Anh ưu tiên và lựa chọn thị trường bất động sản để cho vay là hoàn toàn chính xác. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, cho vay nhà ở chiếm một tỷ trọng rất lớn trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Ở Châu Âu, tỷ lệ này là 20%, ở Mỹ là 30%...
Vấn đề thứ hai là, như tôi đã phân tích, lĩnh vực bất động sản đang được bảo hộ. Sự cạnh tranh chủ yếu là giữa các doanh nghiệp nội địa, chưa có các nhà đầu tư khổng lồ từ bên ngoài vào. Do đó, tập trung cho vay vào những doanh nghiệp lớn là một lợi thế. Vấn đề là việc lựa chọn các dự án và phân khúc có điểm hoàn vốn lý thuyết lớn nhất, để giải quyết vấn đề vốn trung và dài hạn đang rất hạn hẹp.
Danh mục bất động sản của Techcombank tương đối lớn nhưng so với các tổ chức tín dụng khác lại không quá cao, và đáp ứng các chỉ số an toàn. Hoạt động cho vay lĩnh vực bất động sản cũng được phân định rõ ràng đâu là cho vay kinh doanh đầu tư, đâu là cho vay để mua nhà. Như với các khoản cho vay kinh doanh bất động sản đều được ngân hàng áp dụng hệ số rủi ro 200 - 250%, từ đó tác động tới các chỉ số an toàn vốn. Hiện hệ số an toàn vốn (CAR) của Techcombank lên tới 16%, cao nhất hệ thống.
Tóm lại, sự lựa chọn của ông Hồ Hùng Anh và Techcombank vẫn là đặt niềm tin vào các doanh nghiệp lớn. Đó là sự lựa chọn những lĩnh vực đòi hỏi vốn trung và dài hạn rất lớn. Do đó, câu hỏi đặt ra cho Techcombank là làm thế nào để có được nguồn vốn trung và dài hạn?
Thực tế, Techcombank đang phát huy khá tốt các lĩnh vực tư vấn tài chính khác, để tạo ra một dòng tiền dương mạnh, ví dụ thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu, tài trợ thương mại, tăng vốn cấp hai…
- Theo chuyên gia, đâu là cách để Techcombank tạo ra chi phí huy động thấp, tăng tỷ lệ lãi suất chênh lệch (NIM) dù lãi suất cho vay có xu hướng giảm từ năm 2018, đặc biệt là giải được bài toán nguồn vốn trung và dài hạn?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Lợi thế có ý nghĩa quyết định đối với một ngân hàng lớn khi tập trung cho vay vào những tập đoàn là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi thanh toán. Trước hết, Techcombank đang hướng vào những tập đoàn lớn nhất của Việt Nam, và đó đều là những tập đoàn có dòng tiền khá mạnh. Đó cũng là nguồn lực quan trọng cho vay trung và dài hạn khá ổn định.
Nhưng, để tạo ra một nguồn lực cho vay trung và dài hạn vững chắc và lâu dài, kinh nghiệm của các ngân hàng Châu Âu cho thấy, cần mở rộng nguồn huy động với diện khách hàng lớn, thông qua những dịch vụ tài chính cung cấp cho khách hàng gửi tiền, ví dụ như ngân hàng trực tuyến, mua sắm online… Muốn làm được như vậy, phải có nền tảng công nghệ tốt.
Ngoài ra, cần quan tâm đến trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu dài hạn của ngân hàng, và trái phiếu của các doanh nghiệp đang hướng đến cho vay để tạo ra vùng đệm tài chính an toàn trên nền tảng vốn cấp hai, để tránh những căng thẳng tài chính có thể đến từ nội địa hoặc bên ngoài “dội” vào.
Chi phí huy động thấp của Techcombank là nhờ việc ngân hàng đã tìm cách tăng tỷ trọng CASA của khách hàng thông qua các chương trình miễn phí giao dịch trực tuyến hay hoàn tiền 1% giá trị thanh toán qua thẻ. Những lợi ích lớn mà Techcombank cung cấp thúc đẩy khách hàng của nhà băng này duy trì số dư tiền mặt lớn trong tài khoản, không chỉ để trả nợ mà còn thanh toán trực tuyến, chuyển tiền, mua sắm online.
Nhờ một lượng tiền gửi không kỳ hạn lớn, Techcombank sở hữu nguồn vốn giá rẻ hơn các ngân hàng còn lại, dù chịu giảm một khoản thu nhập từ phí.
Bên cạnh đó, việc “giam” được tiền của người tiêu dùng trong các tài khoản ngân hàng còn mang lại lợi ích dài hạn đáng kể cho Techcombank như có thể định hướng hành vi người tiêu dùng, tiết kiệm chi phí vận hành trên kênh số và xây dựng mối quan hệ gắn bó với khách hàng.
Miễn phí giao dịch trực tuyến hay hoàn tiền 1% giá trị thanh toán qua thẻ được xem là chính sách phá giá phí dịch vụ ngân hàng của Techcombank. Đối với nhiều ngân hàng, phí giao dịch vẫn là một nguồn thu đáng kể, dù gần đây thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng được bổ sung thêm nhiều nguồn khác như bảo hiểm, tư vấn…
- Techcombank cũng rất giỏi trong việc tận dụng tệp khách hàng hiện có và tạo dựng tệp khách hàng mới?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Techcombank vốn là ngân hàng hàng đầu về công nghệ, gần đây có chiến lược mạnh mẽ hơn về phát triển công nghệ.
Thứ nhất, ngân hàng có những đầu tư rất lớn cho công nghệ, số hóa và môi trường kết nối số. Ở thời điểm IPO vào năm 2018, Techcombank tiết lộ sẽ đầu tư hơn 300 triệu USD trong 3 năm để đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin. Đây cũng là khoản đầu tư lớn nhất cho hệ thống công nghệ thông tin mà một ngân hàng trong nước bỏ ra.
Đó là sự đầu tư để hướng tới triết lý tạo dựng hệ sinh thái kết nối dịch vụ bắc cầu, nghĩa là khi làm tốt dịch vụ này, sẽ xuất hiện cơ hội phát triển các dịch vụ khác cho khách hàng. Điều này ở Việt Nam có rất ít ngân hàng có thể làm được, bởi cần có đầu tư lớn, bài bản, dựa trên sự nghiên cứu nghiêm túc.
Techcombank đã thành công với triết lý: Khi khách hàng hài lòng với dịch vụ hiện tại thì lúc đó họ mới sẵn sàng nhận thêm. Triết lý này khác xa cách mà không ít ngân hàng đang làm: Giới thiệu thật nhiều sản phẩm, dịch vụ bất kể khách hàng có sẵn sàng hay không.
Trong khi đó, mở rộng khách hàng theo chuỗi giá trị là bước đi cốt lõi trong quá trình chuyển đổi chiến lược của Techcombank.
Cụ thể, ngân hàng này tập trung khai thác chuỗi giá trị trong 6 lĩnh vực kinh tế trọng tâm (đóng góp khoảng một nửa GDP), bao gồm: Nhà ở, ô tô, dịch vụ tài chính, du lịch & giải trí, hàng tiêu dùng nhanh (FMCG), tiện ích & viễn thông.
Hiện nay, 2 phân khúc mà Techcombank đã tạo dựng được thành công nhất định là: Đồ uống & thực phẩm (thuộc lĩnh vực FMCG) và nhà ở.
Khai thác theo chuỗi giá trị rất quan trọng với Techcombank, đặc biệt là cho vay theo chuỗi giá trị, bởi đây là yếu tố cốt lõi trong giai đoạn chuyển đổi chiến lược tiếp theo của Techcombank là "tăng cường quản lý hiệu suất" với trọng tâm là "quản lý lợi nhuận trên tài sản có rủi ro".
Điều quan trọng hơn, đó là Techcombank vừa đầu tư vào công nghệ (có thể trong những năm đầu chưa tiết kiệm được nhiều các chi phí khác), vừa đưa ra được định hướng trong vòng bao nhiêu năm phải giảm được chi phí xuống.
Đây là điều các ngân hàng trên thế giới đang tiến hành mạnh mẽ và số hóa một cách bài bản, từ khâu đào tạo nhân lực, đến khâu phổ biến các quy định, chính sách. Các chương trình số hóa rất thực tiễn, được thực thi nhanh nhất, đơn giản nhất, hiệu quả nhất, nhân viên thành thạo nhất.
Có thể nhận thấy, xét về nền tảng thực tế, Techcombank và VPBank đang là những ngân hàng có lợi thế lớn hơn cả trong cuộc đua ngân hàng số, khi sở hữu tệp khách hàng lớn, số lượng giao dịch online cao, kéo theo đó là lợi thế về dữ liệu thông tin và nhu cầu của khách hàng - điều cực kỳ quan trọng trong phát triển ngân hàng số.
Lĩnh vực thứ hai được số hóa, đó là quản trị nhân lực và hoạt động quản lý rủi ro và kinh doanh nguồn vốn. Khó khăn lớn nhất trong việc số hóa của các ngân hàng thương mại là số hóa hoạt động kiểm toán nội bộ. Một trong những thảm họa của ngân hàng Việt Nam hiện nay đó là nhân viên ngân hàng không ổn định, chỉ làm một thời gian ngắn, kiếm được một vài dự án đầu tư rồi rời bỏ ngân hàng. Thậm chí, khi đi rồi để lại những tổn thất rất lớn cho ngân hàng như chi phí đào tạo, bất ổn về nhân lực, đứt đoạn các quy trình, chuỗi kết nối, thậm chí là ảnh hưởng đến thương hiệu của ngân hàng. Rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh diễn ra do sự bất ổn từ các nhân lực này.
Các ngân hàng ở Đông Nam Á rút kinh nghiệm và tập trung vào một số vấn đề lớn để số hóa như kiểm toán nội bộ, tăng chất lượng dịch vụ để kiểm soát kỹ toàn bộ quy trình nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên. Ở Việt Nam, các ngân hàng hiện cũng đang bế tắc khi đưa ra các quy định, chính sách để giữ được nhân viên như cách trả lương cao hơn, chế độ đãi ngộ phúc lợi…
Tôi cho rằng, cần phối hợp nhiều biện pháp, như bên cạnh đãi ngộ, cần lưu ý đào tạo tính chuyên nghiệp và văn hóa nội bộ. Cần khơi dậy sự tự hào khi nhân viên làm việc tại ngân hàng. Cần cho họ nhận thấy được giá trị kinh tế và xã hội vượt trội so với các ngân hàng khác. Đây là kinh nghiệm các ngân hàng Nhật Bản đã làm rất thành công khi so sánh với Mỹ, chỉ có bài duy nhất là tăng tiền thưởng trên doanh thu, hoặc tăng tiền thưởng trên lợi nhuận. Ở Nhật Bản, các ngân hàng gắn tiền thưởng với các giá trị xã hội. Tương tự như thế, nhân viên làm ở Techcombank đã tạo ra những giá trị thương hiệu rất nổi bật và tạo được những giá trị xã hội nhất định.
- Ông Hồ Hùng Anh coi trọng nguyên tắc, đầu tư vào con người chính là đầu tư cho tương lai của ngân hàng. Ông nghĩ sao về điều này?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Thực ra đó là vấn đề nói thì dễ, nhưng làm thì rất khó. Khó ở chỗ, Việt Nam đang có xu hướng (nhất là trong giới trẻ) nhầm lẫn các giá trị kinh tế thị trường với các giá trị xã hội của họ. Đó là sự nhầm lẫn tại hại khi cho rằng, kinh tế thị trường cũng là một xã hội thị trường. Họ không biết rằng, giá trị của kinh tế thị trường là tiền, còn giá trị của xã hội không phải là tiền, mà là đạo đức, văn hóa, lòng yêu nước, yêu nghề, yêu công việc. Khuynh hướng nhầm lẫn này bắt đầu từ nước Mỹ, khi có những nhận thức lệch lạc theo hướng tiền mua được mọi thứ. Luồng khuynh hướng này đã bị các nhà kinh tế, chính trị, xã hội học của Châu Âu, thậm chí cả của nước Mỹ phê phán gay gắt. Đó có thể coi là bi kịch của nước Mỹ. Ở Việt Nam, tôi cho rằng, khuynh hướng này còn mạnh hơn ở Mỹ, nhất là trong giới trẻ.
Chính vì thế, tôi hoàn toàn đồng ý với ông Hồ Hùng Anh, khi tạo dựng triết lý theo đuổi giá trị của con người. Chúng ta phải tạo ra cho nhân viên ngoài giá trị về kinh tế, phải có những giá trị khác, đó là phát huy vai trò của họ đối với xã hội, gia đình và tương lai của các thế hệ. Đây là vấn đề không chỉ của Techcombank, của ngành ngân hàng, mà của cả xã hội. Nếu Đảng và Nhà nước không có những nghị quyết rõ ràng về kinh tế thị trường và xã hội phi thị trường thì sẽ tạo ra những bi kịch rất lớn trong tương lai. Ông Hồ Hùng Anh là người nhận ra điều đó, và theo đuổi triết lý đó, đó là trách nhiệm của người làm kinh doanh đối với việc giữ gìn các giá trị đạo đức, văn hóa của dân tộc.
Trên thế giới có những nước, bây giờ thứ gì cũng đem ra mua bán. Ví dụ, ở Mỹ có công ty bán suất xếp hàng vào nghe điều trần; người già ốm yếu có người đứng ra mua bảo hiểm, đợi qua đời nhanh để lấy tiền bảo hiểm – đó là hành vi kinh doanh xác chết; nghĩa vụ quân sự thuê – công dân chỉ cần có tiền là không phải đi bộ đội, không cần thực hiện nghĩa vụ với đất nước…
Ở Việt Nam, nếu không cẩn thận sẽ nhanh chóng đi vào khuynh hướng này, bởi nhận thức của giới trẻ còn nhiều hạn chế, hệ thống giáo dục chưa chú trọng nhiều đến các giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức, chính trị…
Tôi nghĩ rằng, tư tưởng coi trọng giá trị con người, đầu tư cho con người của ông Hồ Hùng Anh có sự tiến bộ vượt bậc, khi so với các nhà kinh doanh khác hiện nay ở Việt Nam. Nếu làm được điều đó ở Techcombank, sẽ tạo dựng được mô hình kinh doanh mang tính nhân văn và lâu bền.
Doanh nhân Hồ Hùng Anh: Tỷ phú USD đầu tiên của ngành ngân hàng
Ông Hồ Hùng Anh sinh năm 1970, quê gốc tại tỉnh Thừa Thiên - Huế nhưng sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Ông từng tốt nghiệp cử nhân ngành Điện tử tại Đại học Bách khoa Kiev (Ukraine). Ông Hồ Hùng Anh là Chủ tịch Techcombank từ năm 2008 đến nay và từng là Phó Chủ tịch Tập đoàn Masan. Năm 2019, ông Hồ Hùng Anh là một trong năm tỷ phú USD của Việt Nam được Tạp chí Forbes (Mỹ) ghi nhận trong danh sách tỷ phú thế giới. Chủ tịch Techcombank được cho là đang sở hữu khối tài sản lên tới 1,7 tỷ USD.
Bản thân tôi đang muốn tư vấn cho Đảng và Nhà nước về việc phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội, phải tách bạch rõ ràng kinh tế thị trường và xã hội phi thị trường. Cần nâng cao phẩm giá của người Việt. Tôi lấy ví dụ, chúng ta cần tôn vinh đạo Mẫu của Việt Nam. Đạo Mẫu có những giá trị rất nhân văn, và cũng có những giá trị rất kinh tế. Đó là tạo ra những con người có thể làm giàu một cách nhân văn qua nhiều thế hệ. Đồng thời, cũng tạo ra tư tưởng yêu hòa bình. Người Nhật Bản tôn sùng tinh thần võ sĩ đạo – sẵn sàng chấp nhận bạo lực và họ thường chọn bạo lực để giải quyết các vấn đề. Trong khi đó, đạo Mẫu sử dụng các biện pháp phi bạo lực, dựa trên nền tảng tình yêu thương con người, tôn trọng hiếu nghĩa, đặc biệt là yêu hòa bình. Song, đạo Mẫu cũng rất dũng cảm, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. Trên thế giới này ở đâu có tấm gương vĩ đại như Hai Bà Trưng cưỡi voi dẫn đại binh ra trận, đuổi quân Nam Hán về tận sào huyệt Hồ Động Đình? Nhân loại chưa có tấm gương nào về người phụ nữ anh dũng như thế. Nếu theo tư tưởng của đạo Phật, họ là người vừa bố thí của nả, vừa bố thí thân mạng cho Tổ quốc (bố thí nghĩa là hy sinh).
Chúng ta có thể tiếp tục nghiên cứu sâu thêm tư tưởng của ông Hồ Hùng Anh, để có thể thực hành rộng rãi trong các tập đoàn kinh doanh, đó cũng là cách tạo ra bằng chứng thực tiễn cho các nghị quyết sắp tới của Đảng và Nhà nước.
- Trên thực tế, định hướng đầu tư cho con người đã giúp Techcombank tạo ra những giá trị vượt trội hơn?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Một ngân hàng tốt cần xây dựng được ba trụ cột: Nhân sự, vận hành và quản trị rủi ro, dữ liệu. Trong một nền kinh tế thị trường đang phát triển nhanh, với sự thay đổi nhiều giá trị và nhận thức như tôi đã phân tích, Techcombank đã biết cách chú trọng và dành ưu tiên cao cho việc tuyển dụng, đào tạo và giữ chân những nhân sự tài năng nhất thông qua những hoạt động truyền cảm hứng và các chương trình đào tạo nội bộ. Kết quả là mới đây, vào đầu tháng 7/2020, Techcombank, nơi quy tụ hơn 11.000 Techcomers, đã được vinh danh Giải thưởng “Nơi làm việc tốt nhất châu Á 2020” do HR Asia Magazine – tạp chí uy tín hàng đầu về Nhân sự tại khu vực châu Á tổ chức và bình chọn.
Không chỉ dẫn đầu khối ngân hàng về hiệu quả kinh doanh, Techcombank còn nổi tiếng với các quyết sách về nhân sự để thu hút nhân tài. Do đó, mức thu nhập lợi nhuận thuần trên mỗi nhân viên cao vượt mặt bằng chung, khi ước tính trong 3 tháng đầu năm, trung bình mỗi nhân viên tạo ra hơn 500 triệu đồng doanh thu và hơn gần 300 triệu đồng lợi nhuận trước thuế, góp phần tăng nội lực ngân hàng, vừa xây dựng đội ngũ nhân sự gắn kết cùng lộ trình phát triển của Techcombank.
Được biết, cùng nhau "vượt trội hơn mỗi ngày” là thông điệp mà Chủ tịch Techcombank muốn chuyển tới các nhân viên và khách hàng, để những người gắn bó với Techcombank “giá trị hơn mỗi ngày”, để doanh nghiệp hợp tác với Techcombank “thuận tiện hơn mỗi ngày”.
- Có một điểm chung khá lý thú là, ngoài ông Hồ Hùng Anh, cũng có một số doanh nhân nổi tiếng khác, đều là du học sinh ở Đông Âu như các ông Nguyễn Đăng Quang, Phạm Nhật Vượng, Lê Viết Lam, chọn khởi nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh mì gói và tương ớt, sau khi thành công tại thị trường Nga và Ukraina đã quay về Việt Nam kinh doanh. Ông đánh giá ra sao về những quyết định này?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Lúc tôi còn học ở trường Đại học Harvard, một giáo sư có nói, việc đầu tiên của nhà kinh doanh khởi nghiệp, là phải biết chọn sản phẩm, đảm bảo được bốn yếu tố lớn: Vốn đầu tư thấp (vì đang khởi nghiệp); Doanh thu phát triển nhanh (nhờ có thị trường tiêu dùng rộng rãi); Tối ưu hóa được lợi nhuận; Phòng ngừa được rủi ro (khi có rủi ro thì không mất quá lớn). Các doanh nhân như Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Đăng Quang, Hồ Hùng Anh hay Lê Viết Lam đều có sự lựa chọn sản phẩm, môi trường và thời điểm rất tốt khi khởi nghiệp và chuyển hướng kinh doanh.
Họ đã lựa chọn ngành khởi đầu kinh doanh là thực phẩm để tạo ra lợi thế đột biến trong nền kinh tế thiếu - nền kinh tế dư thừa. Ở các nước tư bản là nền kinh tế dư thừa (hàng tiêu dùng, nông sản, thực phẩm); ở các nước như Nga, Ukraina thiếu thực phẩm trầm trọng, một mẩu bánh mì cũng quý giá vô cùng. Đó là sản phẩm của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp: Cái gì cũng thiếu. Họ đã tận dụng được thời cơ có tính thời đại và bứt lên rất nhanh.
Sau này, nhiều doanh nghiệp của Việt Nam cũng đi từ thực phẩm, kể cả những tập đoàn lớn như FPT của ông Trương Gia Bình.
Đó là giai đoạn mở đầu để tạo ra những cơ sở nền tảng. Khi tối ưu hóa được lợi nhuận, trước những biến chuyển của tình hình thế giới và các nền kinh tế, họ chuyển hướng hoạt động trên những lĩnh vực có nhiều lợi thế, nhất là khi có sự hỗ trợ của một ngân hàng lớn như Techcombank. Đó là lợi thế hiếm hoi cần phát huy ở Việt Nam.
Bây giờ, trước mắt họ lại đặt ra vấn đề phải lựa chọn. Họ lựa chọn dấn thân mạnh mẽ vào công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp chế biến thực phẩm. Đó là hai sự lựa chọn có nhiều tiềm năng, nhưng cũng vô cùng cam go khi phải cạnh tranh khốc liệt về công nghệ. Nhưng, nếu vượt qua được, nhất là khi có sự hỗ trợ của một ngân hàng lớn, hoàn toàn có thể trở thành những tập đoàn vững vàng, trụ cột của Việt Nam. Gắn với đó là những kết quả tích cực trong hoạt động kinh doanh bất động sản – một dạng sản phẩm thiếu dài hạn – dẫu khác với bối cảnh thiếu của nền kinh tế Nga và Ukraina hay Việt Nam giai đoạn trước, do bất cập về thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư, đền bù giải phóng mặt bằng, pháp lý…
Chính phủ cần đẩy nhanh việc đơn giản hóa thủ tục, minh bạch hóa luật lệ, để cho đồng tiền của những doanh nhân này chính là đồng tiền của dân phát huy nhanh hiệu quả chứ không để tình trạng những đồng tiền hiếm hoi phải đợi dăm ba năm mới ra được một dự án.
- Ông đánh giá ra sao về triển vọng thành công của những sự “bắt tay” này?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng, ban đầu, việc “bắt tay” đến từ sự tận dụng lợi thế kinh doanh của nhau. Tuy nhiên, về lâu dài, mô hình liên kết này đã được nâng cấp, khi có khung chiến lược chung dài hạn, đảm bảo đủ tiềm lực tài chính, nhân lực để làm chủ công nghệ. Vừa vững vàng về công nghệ ngân hàng, vừa vững vàng về công nghệ xây dựng – chế tạo – thực phẩm là cơ sở để thành công.
- Tôi thấy có một điều đặc biệt là, những doanh nhân thành đạt ở Đông Âu trở về Việt Nam lập nghiệp, mỗi người một lĩnh vực, nhưng đều có sự kết nối và hợp tác chặt chẽ với nhau chứ không hề “ghè nhau sứt đầu mẻ trán” như cách một số doanh nhân khác ở Việt Nam đang làm?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Tôi cảm nhận được rằng, thứ nhất, những doanh nhân như Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Đăng Quang, Hồ Hùng Anh hay Lê Viết Lam đều từ Đông Âu trở về Việt Nam, đó là vấn đề lựa chọn cơ hội để kinh doanh. Cơ hội để nhanh chóng trở thành doanh nghiệp lớn là phải kinh doanh trong nền kinh tế thiếu và mình là người tiên phong. Khi thiếu thì sẽ có nhiều cơ hội thành công. Và khi đó, không cần đội ngũ nghiên cứu, tư vấn hùng hậu hay đội ngũ kỹ sư lành nghề. Đến thời điểm hiện tại, đây lại chính là những vấn đề đang được các doanh nhân này đầu tư và tập trung nhất.
Thứ hai, về sự “bắt tay” của các doanh nhân này, tôi cho rằng, đó là sự liên kết mẫu mực, mà lẽ ra, ở Việt Nam nên có nhiều sự liên kết như thế. Đó vừa là nhân duyên hiếm có giữa những doanh nhân xuất sắc; đồng thời, cũng là sự lựa chọn đầy khôn ngoan, có tầm nhìn xa và thức tỉnh thời cuộc.
- Ông có nói rằng, đây là sự liên kết mẫu mực. Ở góc độ hoạch định chính sách, chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá sự liên kết này ra sao, thưa chuyên gia?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Gần đây, tôi có trao đổi với Thủ tướng rằng, chúng ta muốn phát triển thị trường nội địa, phải có những tổ hợp liên kết các doanh nghiệp với nhau. Làm được như vậy mới có thể bảo vệ được thị trường nội địa trước những cạnh tranh khốc liệt từ bên ngoài. Bây giờ, khi chúng ta mở toang thị trường, nếu doanh nghiệp Việt Nam mạnh ai nấy lo, thân ai nấy giữ, sẽ rất khó cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực công nghệ.
Tôi có đề xuất với Thủ tướng, Chính phủ cần phát động phong trào liên kết doanh nghiệp mạnh mẽ với nhau hơn nữa. Đó là sự liên kết theo cụm sản phẩm, chứ không nhất thiết tất cả đều phải liên kết lại. Chỉ khi có sự liên kết như cách mà Techcombank, Vingroup, Sun Group, Masan Group đang tạo dựng, mới tạo ra sự gắn kết mà không có đối thủ ngoại nào có thể xâm nhập được. Chỉ có sự liên kết, mới tạo ra được nền tảng phát triển bền vững cho các doanh nhân.
Tôi muốn nhấn mạnh một điều, các doanh nhân trên đã tạo ra nét rất mới ở Việt Nam và Chính phủ cần coi đó không phải là sự ngẫu nhiên, mà là kết nối chiến lược để bảo vệ lợi ích cho nhau lâu dài và cũng là cách bảo vệ nền kinh tế.
Kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) cho thấy, các kết nối của doanh nghiệp trong một nhóm đồng lợi ích, đồng hệ sinh thái, đồng đường hướng phát triển là vô cùng quan trọng. Nó tạo ra sức mạnh về nghiên cứu phát triển đủ tiềm lực, đặc biệt là nghiên cứu phát triển công nghệ, thị trường và hỗ trợ sử dụng tài chính hiệu quả nhất. Suy cho cùng, đó là cách giúp nhau cùng chiến đấu với các đối thủ cạnh tranh, bảo vệ thị trường nội địa.
Ở Việt Nam, ngoài sự kết hợp hiếm hoi như trên, chính xác hơn là ở tầng các doanh nghiệp, doanh nhân lớn, đó gần như là sự kết hợp duy nhất. Rất đáng xấu hổ khi chúng ta không có được những cái bắt tay thời cuộc, mà thay vào đó là sự cạnh tranh tàn khốc, thậm chí là sử dụng các thủ đoạn để triệt hạ nhau. Kinh doanh hiện đại không phải như thế, mà cần có sự liên kết, hợp tác để cùng phát triển. Mà trước hết, phải dựa trên sự thấu hiểu, sẻ chia, kinh doanh nhân văn và vì một mục tiêu chung là làm giàu cho đời, làm giàu cho đất nước.
- Nghe ông phân tích, tôi lại nhớ đến một câu nói của nhà văn Pháp Victor Hugo: “Trên thế giới, thứ rộng lớn nhất là đại dương, nhưng thứ rộng lớn hơn đại dương lại là bầu trời. Mà thứ rộng lớn hơn cả bầu trời lại chính là lòng người”.
TS. Lê Xuân Nghĩa: Bạn biết đấy, trên đời này, muốn đi nhanh, hãy đi một mình, nhưng muốn đi xa, hãy đi cùng nhau. Điều quan trọng nhất trong kinh doanh, suy cho cùng không phải là chuyện thắng thua, mà là giúp người khác cùng vươn lên chiến thắng. Đó là ý thức tự cường và tự tôn dân tộc, chứ không phải là việc làm ra bao nhiêu lợi nhuận, bỏ được vào túi bao nhiêu tiền.
Đó là triết lý muôn thuở, đúng cả trong cuộc đời và kinh doanh. Tôi nghĩ rằng, cả ông Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Đăng Quang, Hồ Hùng Anh hay Lê Viết Lam đều là những người rất thấu hiểu điều đó.
- Tôi cảm thấy may mắn khi từng đọc được những chia sẻ của nhà bác học lỗi lạc người Áo Ernst Mach, rằng, mọi điểm vật chất trong vũ trụ đều chịu tác động của toàn bộ vũ trụ, tổng hợp lực của toàn bộ vũ trụ tác động lên một điểm vật chất chính là lực quán tính tác động lên điểm ấy, và lực quán tính làm cho con lắc giữ nguyên mặt phẳng dao động của nó, bất chấp Trái Đất quay. Mach nêu ra nguyên lý: Bất kể vật chất nào trong vũ trụ cũng phải gắn kết chặt chẽ với toàn bộ phần còn lại của vũ trụ; không tồn tại bất kỳ một cá thể độc lập nào; sự phân chia vật chất thành những thành phần đối lập loại trừ lẫn nhau là sai lầm, giả tạo, bởi toàn vũ trụ là một! Điều này có vẻ như là đúng, nếu chiếu theo cách ông phân tích về sự liên kết của các doanh nhân trên?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Cần hiểu rằng, thực ra vạn vật là bất nhị, không có một ai tồn tại biệt lập được, cũng không có một dạng vật chất nào tồn tại biệt lập được, cho dù đó là lượng tử, nguyên tử cho đến con kiến, con ong, thậm chí là cả vũ trụ.
Do đó, việc hợp tác giữa những doanh nhân để giải quyết các vấn đề lợi ích chung là rất quan trọng và phù hợp với quy luật của cuộc sống để có thể dễ dàng thích nghi hơn với môi trường xung quanh, dễ dàng đối phó hơn với các rủi ro và thảm họa.
Chúng ta đừng hoài nghi gì về những sự liên kết và hợp tác đó nữa. Có thể thấy, đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp này là rất lớn và rất mạnh, nếu đơn thương độc mã chắc chắn sẽ thất bại.
- Từ những câu chuyện liên kết này, cũng đặt ra cho Chính phủ những nghệ thuật mới trong quản lý?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng, Chính phủ cũng cần có những sự hỗ trợ, thậm chí là cần hỗ trợ nhanh và sâu, bởi các doanh nhân này đều đang đi vào những lĩnh vực còn non trẻ ở Việt Nam. Công nghiệp cơ khí chế tạo và công nghiệp thực phẩm là những mũi nhọn hàng đầu - những ngành công nghiệp thực sự nhưng rất non trẻ ở Việt Nam. Đảng và Chính phủ cần có sự hỗ trợ thực sự, chứ không phải hô hào chung chung. Đó là hỗ trợ về đất đai, thuế, đào tạo nhân lực. Hỗ trợ thuế dễ bị đối thủ cạnh tranh quốc tế phản đối, nên có thể hỗ trợ chéo, chẳng hạn như bất động sản.
Giống như cố Tổng thống Park Chung-Hee, khi hỗ trợ trực tiếp cho các tập đoàn nội địa của Hàn Quốc bị các nước tham gia hiệp định GAT phản đối, ông đã tuyên bố: Nếu không hỗ trợ được mặt tiền thì sẽ hỗ trợ mặt hậu. Thậm chí là can thiệp cả vào khấu hao của các tập đoàn.
Trong nhiều lần tôi đến Hàn Quốc, Nhật Bản công tác, người ta đưa ra những đoàn xe đón tiếp rất sang trọng, nhưng chỉ toàn ô tô nội địa, điện thoại nội địa và thực phẩm phần lớn cũng là nội địa.
Nghĩa là, cần có ý chí của cả dân tộc, của Đảng và Nhà nước mới tạo dựng được nền công nghiệp thực sự, mới giữ cho nền công nghiệp non trẻ phát triển được trong “đàn sói” công nghiệp của thế giới. Nếu chỉ hô hào vận động suông, những doanh nghiệp, doanh nhân nhảy vào những lĩnh vực đó sẽ “chết” oan uổng. Phải coi đó là những lĩnh vực cốt tuỷ của một dân tộc.
Tôi lấy ví dụ, nếu chúng ta không có lĩnh vực công nghiệp cơ khí chế tạo hùng mạnh, sẽ lấy đâu ra đội ngũ kỹ sư có đẳnh cấp cao cho đất nước để phát triển công nghiệp quốc phòng, đơn giản nhất là trong bảo trì vũ khí hiện đại, có khi phải đưa ra nước ngoài. Hoặc như để thực phẩm chế biến có thể đi qua hàng rào của các nước phát triển, phải có đội ngũ kỹ sư thực phẩm chuyên sâu về công nghệ vi sinh, công nghệ bảo quản, công nghệ làm sạch…
Trong tương lai, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng phát triển thực phẩm chức năng. Tuy nhiên, nếu không có sự vào cuộc của những tập đoàn lớn, với sự đồng hành về mặt chính sách của Chính phủ, sẽ không thể phát huy hết những tiềm năng đó. Việt Nam sẽ khó trở thành “bếp ăn” của toàn cầu.
Nhìn chung, các chính sách của Việt Nam đối với những lĩnh vực cốt tuỷ còn thiếu rất nhiều, và có vẻ như vẫn còn nói nhiều hơn làm, lý thuyết nhiều hơn hành động thực tiễn.
- Có vẻ như còn những e ngại, thậm chí là ngại dư luận phản ứng?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Chúng ta đều biết, doanh nghiệp của các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đều có những viện nghiên cứu được đầu tư hàng tỷ USD. Có viện nghiên cứu về công nghiệp ô tô của doanh nghiệp Trung Quốc được đầu tư đến 3,3 tỷ USD; viện nghiên cứu của Nhật Bản được đầu tư 6 tỷ USD. Tất cả những sự đầu tư đó đều được Chính phủ hỗ trợ.
Tôi lấy ví dụ, chỉ một củ khoai lang, Nhật Bản có thể làm ra trên 300 sản phẩm, bán khắp thế giới. Nếu không có nghiên cứu phát triển công nghệ mới thì không thể làm được. Việt Nam rất giàu tiềm năng, và muốn cạnh tranh được với những đối thủ quốc tế, cần bắt tay ngay bằng công nghệ hiện đại, thông qua các dự án nghiên cứu phát triển.
Chính phủ hỗ trợ cho họ, cũng có nghĩa là hỗ trợ tăng thu nhập cho hàng chục triệu nông dân và người lao động, chứ không phải hỗ trợ cho các đại gia. Nếu chỉ coi họ là đại gia, chúng ta sẽ không có ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo.
-Nhưng nhiều người lo sợ sự lũng đoạn, nhất là khi những doanh nghiệp tư nhân lớn liên kết lại với nhau và lớn mạnh?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Chúng ta có luật về chống hạn chế cạnh tranh nên có thể căn cứ vào các điều khoản trong luật để giám sát.
Tuy nhiên, tôi cho rằng, trong giai đoạn đầu này, những hành vi như vậy chỉ có những doanh nghiệp FDI ở Việt Nam mới tạo ra những sự thống lĩnh thị trường và độc quyền, chứ chưa có doanh nghiệp tư nhân nào của Việt Nam làm được. Nhưng, chúng ta có làm gì được các doanh nghiệp FDI đâu?
Do đó, đừng nên lo những điều chưa thể xảy ra. Thay vào đó, hãy tìm cách để đồng hành cùng các doanh nghiệp, doanh nhân đang tiên phong dấn thân, thậm chí hy sinh vì đất nước.
- Nói như vậy, nghĩa là nhiều người đang lo thừa?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Người Việt Nam nhiều khi cứ xăm xoi chính người mình. Trong khi đó, nhiều người nước ngoài lù lù, đập cho mình “phát nào chết phát đấy” thì không thấy lo. Đây là chuyện lố bịch về văn hóa kinh doanh và văn hóa ứng xử. Nói cách khác, đó là tâm lý tiểu nhân, hay nói cách khác nữa, là tâm lý nô lệ. Nô lê đánh nhau, chứ không dám đánh vào ông chủ. Tâm lý như vậy cũng có nguồn gốc xã hội. Nhưng, để trở thành dân tộc văn minh, sánh vai với các cường cuốc, phải phá bỏ cái tâm lý đó.
- Qua những lần tiếp xúc và quan sát, ông thấy Thủ tướng và Chính phủ đã có hành động ra sao để đồng hành với những doanh nghiệp, doanh nhân lớn của đất nước?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Cố gắng hiện tại của Chính phủ, nếu xét về mặt hình thức khá là mạnh mẽ, song chưa đủ. Chưa đủ bởi chưa có những nghiên cứu sâu và toàn diện. Chưa có một chiến lược thực sự về phát triển công nghiệp chế tạo và công nghiệp thực phẩm – hai ngành công nghiệp quan trọng nhất ở Việt Nam. Công nghiệp chế tạo có liên quan đến công nghiệp ô tô, máy móc, trang thiết bị và các ngành cơ khí chế tạo khác. Trong khi đó, Việt Nam có nhiều ưu thế về ẩm thực và nông nghiệp, thiếu đi ngành công nghiệp chế biến để có thể xuất khẩu dễ dàng đến những nước không có khí hậu nhiệt đới. Đó là ngành công nghiệp không hề đơn giản như nhiều người nghĩ, mà đòi hỏi những công nghệ xử lý rất phức tạp.
Do đó, tôi cho rằng, để những Techcombank, Vingroup, Sun Group, hay Masan Group… lớn mạnh, cần những cố gắng, nỗ lực và sự đồng hành thực chất hơn nữa. Đó đều là những doanh nghiệp, với sự chèo lái của những doanh nhân có tâm, có tầm, luôn giản dị, kín tiếng, khiêm nhường và đang ngày đêm đồng hành cùng sự phát triển của đất nước, của dân tộc Việt Nam.
- Trân trọng cảm ơn chuyên gia về cuộc trò chuyện thú vị này!
Lịch sử đất nước dù thăng trầm, biến đổi không ngừng, nhưng thời nào, giai đoạn nào, dân tộc Việt Nam cũng sản sinh ra những doanh nhân vươn lên làm nên sự nghiệp lớn. Tinh thần kinh doanh vẫn như một dòng máu nóng chảy qua nhiều thập kỷ trong lớp lớp doanh nhân Việt Nam, từ một "tư thương" đầy định kiến dăm bảy thập kỷ trước, hay những "tỷ phú Forbes" bây giờ. Họ không chỉ làm giàu cho mình, đóng góp xứng đáng cho công cuộc phát triển đất nước, mà còn tạo dựng hình ảnh con người Việt Nam tự chủ, năng động; thể hiện niềm kiêu hãnh và khát vọng khẳng định giá trị bản lĩnh Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Qua thời gian, đội ngũ doanh nhân đang có những bước phát triển đáng ghi nhận, hình thành một số tên tuổi đủ tầm vóc, thương hiệu trên thị trường. Họ là những “con sếu” đầu đàn trong cuộc cạnh tranh quốc tế, là chỗ dựa cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Có thể nói, doanh nhân Việt Nam hiện góp phần quan trọng trong tạo việc làm và nguồn thu ngân sách thường xuyên cho đất nước.
Do đó, việc nhìn lại hành trình hình thành và phát triển giới doanh nhân Việt Nam, từ những thăng - trầm đã bộc lộ bản lĩnh - khát vọng, cho đến những cống hiến - đồng hành cùng vận nước, là điều hết sức quan trọng trong bối cảnh tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đổi mới; Đánh giá khách quan hơn vai trò của doanh nhân Việt Nam cũng là cách để hướng tới mục tiêu vì một Việt Nam hùng cường, từng bước cải thiện và nâng cao vị trí đất nước trên trường quốc tế, đồng hành cùng nhân loại tiến bộ. Đồng thời, việc nhìn lại và đánh giá đúng sự đồng hành của giới doanh nhân Việt Nam với dân tộc còn là việc khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí kinh doanh, giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất và trí tuệ, sự nỗ lực, tự cường và đồng thuận xã hội trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập và đứng trước những thời cơ mới, với kỳ vọng Việt Nam sẽ hình thành một thế hệ doanh nhân tài năng và có trách nhiệm xã hội.
Từ những lý do trên, nhân dịp tròn 15 năm từ khi Thủ tướng quyết định lấy ngày 13/10 là “Ngày Doanh nhân Việt Nam”, hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày Bác Hồ viết thư gửi giới công thương Việt Nam (13/10/1945-13/10/2020), Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam (Reatimes) thực hiện tuyến bài truyền thông: Doanh nhân Việt Nam đồng hành cùng dân tộc.