Trong tháng 9, kinh tế thế giới tiếp tục xoay quanh các cuộc đàm phán thương mại giữa Mỹ và đối tác. Mỹ và Hàn Quốc đã ký FTA song phương trong khi các quốc gia Bắc Mỹ cũng đạt được thỏa thuận cải tổ và thay thế NAFTA bằng Thỏa thuận Mỹ - Mexico - Canada (USMCA) sau khi Canada và Mexico chịu nhượng bộ một số điều khoản.
Căng thẳng quan hệ Mỹ - Trung leo thang khi Mỹ quyết định áp mức thuế 10% lên 200 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc ngày 24/9 và thuế suất sẽ nâng lên 25% từ đầu năm 2019. Mỹ cũng đe dọa sẽ đánh thuế lên 267 tỷ USD còn lại nếu Trung Quốc có hành động đáp trả. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn đáp trả bằng cách đánh thuế lên gói hàng hóa 60 tỷ USD từ Mỹ, với thuế suất từ 5-10%.
Thị trường tiền tệ thế giới không phản ứng mạnh với những diễn biến trên. Giá trị đồng USD duy trì khá ổn định trong tháng 9. Chỉ số USD Index sau khi chạm đỉnh 96,7 điểm trong tháng 8 đã giảm trở lại và dao động quanh vùng 94 – 95 điểm trong tháng 9. Sau khi chạm đáy ở mức 93,9 điểm vào ngày 20/9, USD Index mới bắt đầu tăng trở lại và đặc biệt bật tăng khá mạnh lên vượt ngưỡng 95,5 sau phiên họp tháng 9 của Fed diễn ra vào ngày 26/9.
Tại phiên họp này, Fed đã chính thức nâng lãi suất lên mức 2% - 2,25%. Đây là lần nâng lãi suất thứ 3 trong năm 2018 và cũng là lần thứ 8 kể từ tháng 12/2015. Fed cũng đưa ra thông điệp khá lạc quan về triển vọng kinh tế Mỹ.
Với tỷ lệ thất nghiệp ổn định ở mức thấp nhất trong gần 20 năm (3,9%), trong khi lạm phát ở mức mục tiêu 2%, Fed nâng dự báo tăng trưởng GDP của Mỹ năm 2018 lên 3,1% từ mức 2,8%, và lên 2,5% từ 2,4% cho năm 2019. Fed cũng liên tục đưa ra các thông điệp cho biết Fed sẽ kiên định với chính sách thắt chặt tiền tệ để đưa lãi suất về mức cân bằng. Xác suất nâng lãi suất lần thứ 4 vào tháng 12 càng được củng cố lên mức 78%.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đã vượt ngưỡng 3% và duy trì khá vững ở ngưỡng này. Đây là mốc rất quan trọng mà nhà đầu tư quan sát để xác định xu hướng thị trường chứng khoán. Kể từ năm 2011, lợi suất trái phiếu 10 năm mới chạm ngưỡng 3% trong năm 2013 và 2014 rồi nhanh chóng quay đầu giảm cho tới gần đây. Tại ngày 4/10, lợi suất đã tăng mạnh lên ngưỡng 3,2% là mức cao nhất kể từ tháng 5/2011.
Tại Châu Âu, Anh và EU vẫn chưa tìm được lời giải cho vấn đề Brexit. Cùng với đó, vấn đề ngân sách của Italy đang làm nhà đầu tư lo ngại khi Chính phủ nước này đưa ra kế hoạch bội chi 2,4% GDP cho năm 2019, một con số quá cao và rủi ro, đi ngược với những thỏa thuận với EU. Phản ứng với thông tin này, tỷ giá EUR/USD đã giảm gần 2% xuống 1,15% trong tuần cuối tháng càng làm gia tăng sức mạnh đồng USD.
Đồng CNY của Trung Quốc giữ ổn định ở trên ngưỡng 6,8 trong cả tháng 9. Sau đợt mất giá mạnh từ tháng 5 – tháng 8, Ngân hàng TW Trung Quốc (PBOC) đã nỗ lực can thiệp để giữ tỷ giá bằng nhiều cách.
Từ tháng 4, PBOC đã bắt đầu bán ra dự trữ ngoại hối với tổng giá trị 33,1 tỷ USD, đưa dự trữ về mức 3.109 tỷ USD. Từ đầu tháng 8, PBOC đã nâng mức dự trữ bắt buộc từ 0% lên 20% đối với các hợp đồng forward ngoại tệ. Công cụ này đã được áp dụng từ tháng 7/2016 tới tháng 9/2017 và mới được áp dụng trở lại nhằm siết chặt các giao dịch ngoại hối và bình ổn tỷ giá.
Tuy nhiên, tỷ giá CNY chỉ thực sự được kiểm soát sau khi PBOC áp dụng “yếu tố phản chu kỳ” (Counter Cyclical Factor) trong tính toán tỷ giá tham chiếu từ cuối tháng 8. Trong tháng 9, tỷ giá USD/CNY gần như đi ngang và chỉ tăng nhẹ 0,5%. Điều này có ảnh hưởng tích cực tới tỷ giá đồng VND bởi diễn biến tỷ giá VND có liên hệ mật thiết tới tỷ giá CNY.
Chính sách tiền tệ với trọng tâm ổn định tỷ giá
Nhờ sự ổn định trên thị trường thế giới, tỷ giá USD/VND trong nước dao động quanh ngưỡng 23.260/23.340 trong gần hết tháng 9. Tỷ giá bắt đầu tăng vào cuối tháng cùng những tín hiệu tăng của đồng USD. Tỷ giá USD/VND kết thúc tháng 9 ở mức kỷ lục mới 23.310/23.390, tăng 50VND so với tháng 8. Trong khi đó, tỷ giá tự do giảm khá mạnh về 23.400 sau đó lại tăng trở lại ngang mức cuối tháng 8 là 23.470/23.500.
Biến động lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cũng khá nhạy với tỷ giá. Chênh lệch lãi suất VND - USD được kéo giãn đã giúp tỷ giá hạ nhiệt từ giữa tháng 7.
Trong thời gian này, NHNN đã điều hành thị trường tiền tệ để duy trì lãi suất VND qua đêm ở mức 4%, trong khi lãi suất liên ngân hàng USD vẫn khá ổn định ở mức 2%. Chênh lệch 2% là mức khá an toàn để không gây áp lực lên tỷ giá. Tuy nhiên, lãi suất VND giảm trở lại về sát 2% vào nửa cuối tháng 9, khiến chênh lệch lãi suất được thu hẹp, tỷ giá cũng có xu hướng tăng trở lại trong thời gian này.
Giao dịch thị trường mở tháng 9 khá ổn định và nhịp nhàng thể hiện quan điểm rất thận trọng của NHNN. Tổng khối lượng tín phiếu mà NHNN phát hành đạt 52.950 tỷ đồng, chủ yếu để bù lại khối lượng đáo hạn là 50.000 tỷ đồng. Trong đó có một phần là lượng tín phiếu kỳ hạn 91 ngày phát hành trong tháng 6. Tổng khối lượng OMO cho vay ra là 8.155 tỷ đồng, trong khi có 15.401 tỷ OMO đáo hạn. Như vậy NHNN đã hút ròng 10.196 tỷ đồng trong tháng 9. Thanh khoản dồi dào đã đưa lãi suất VND liên ngân hàng về khoảng 2.6%, cao hơn khoảng 60bps so với lãi suất USD.
Nhìn chung, diễn biến tỷ giá tháng 9 chịu tác động chủ yếu từ các yếu tố thị trường trong khi các cân đối vĩ mô vẫn cho những tín hiệu tích cực. Về hoạt động xuất nhập khẩu, xuất siêu bất ngờ tăng mạnh trong tháng 8 với giá trị 2,2 tỷ USD, ước tính tiếp tục duy trì ở mức 0,7 tỷ USD trong tháng 9, nâng thặng dư thương mại từ đầu năm lên 6 tỷ USD so với mức 324 triệu USD cùng kỳ năm 2017.
Trên thị trường chứng khoán, cả hai thị trường cổ phiếu và trái phiếu được khối ngoại mua ròng trở lại với tổng giá trị 1,1 nghìn tỷ đồng sau 3 tháng bán ròng liên tục. Dòng vốn ngoại đảo chiều tuy không lớn nhưng cũng phần nào tác động tích cực tới tâm lý thị trường.
Cán cân tổng thể tiếp tục thặng dư trong Quý II/2018 với giá trị 1,18 tỷ USD, trong đó cán cân vãng lai thặng dư 1,24 tỷ USD, cán cân tài chính thặng dư 2,29 tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm, cán cân tổng thể đạt mức thặng dư 8,45 tỷ USD là mức cao nhất trong 4 năm trở lại đây.
Kiểm soát tăng trưởng tín dụng vì mục tiêu ổn định, bền vững
Trong những năm gần đây, tín dụng tăng nhanh đã đẩy dư nợ tín dụng lên mức 7 triệu tỷ đồng, tương đương 130% GDP so với mức 100% GDP vào cuối năm 2014. Chênh lệch tín dụng/GDP đã liên tục tăng từ mức âm trong năm 2014 lên 30% trong năm 2018. Đây là mức cao so với mặt bằng chung của các nước trên thế giới và trong khu vực. Tỷ lệ này của Thailand, Indonesia, Trung Quốc, Hàn Quốc năm 2017 lần lượt là 6,1%, 6,8%, 12.7% và -2,4%. Tỷ lệ tín dụng/GDP cao là một chỉ báo rủi ro cần phải kiểm soát để không gây lạm phát như đã từng xảy ra trong năm 2008 và 2010.
CPI 9 tháng 2018 tăng 3,2% so với cuối năm 2017, mức tăng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Rủi ro lạm phát chi phí đẩy là đã rõ trong môi trường lãi suất và giá cả hàng hóa toàn cầu tăng. Giá dầu thô đã tăng 60% chỉ trong 1 năm và tỷ giá diễn biến khó lường là những nhân tố bên ngoài rất khó kiểm soát nên chính sách ổn định tỷ giá và kiềm chế lạm phát trong nước cần phải được đặt lên ưu tiên hàng đầu. Tăng trưởng tín dụng vì vậy cần được kiểm soát chặt nhằm giảm bớt lượng sức ép thanh khoản, thu hẹp chênh lệch tín dụng/GDP và giữ lạm phát ở mức hợp lý.
Mặc dù không thay đổi mục tiêu tăng trưởng tín dụng 17% trong năm 2018, NHNN đã đưa ra những thông điệp hướng tới việc kiểm soát tín dụng chặt chẽ hơn, bằng cách ban hành Chỉ thị 04 với điều khoản không điều chỉnh tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Định hướng này phù hợp với khuyến nghị của IMF rằng cần phải hạ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng xuống dưới 17% và hướng tới giảm xuống dưới 14% nhằm củng cố sự ổn định vĩ mô.
Theo ước tính của Tổng cục thống kê, tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm đạt 9,52%, khá thấp so với mức tăng 12,6% cùng kỳ năm 2017 và thấp nhất trong 4 năm trở lại đây. So với cùng kỳ năm trước, tăng trưởng tín dụng hiện vào khoảng 14% theo năm, mức thấp nhất kể từ năm 2015. Mức tăng trưởng hiện tại có thể coi là phù hợp với định hướng hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích kinh tế.
Một điểm tích cực là cơ cấu vốn vay đang có sự dịch chuyển. Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn giảm về 27,67% trong tháng 5/2018 so với mức 33,35% cùng kỳ năm ngoái. Đây là kết quả của việc NHNN hạ tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ 45% xuống 40% từ đầu năm 2019, buộc các NHTM phải đẩy mạnh thu hút dòng vốn dài hạn nhằm tái cơ cấu nguồn vốn. Tháng 9 chứng kiến lãi suất huy động tăng ở kỳ hạn dài trên 12 tháng, trong khi các kỳ hạn ngắn vẫn khá ổn định. Tăng trưởng huy động đạt 9,15% trong 9 tháng đầu năm, thấp hơn so với mức 10,66% trong năm 2017.