
Thúc đẩy kinh tế tư nhân: Thể chế, tư duy và hành động là "tam giác thành công"
Kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới nền kinh tế (1986) đến nay, quan điểm của Đảng ta về khu vực kinh tế tư nhân luôn nhất quán, xuyên suốt và phát triển có tính biện chứng: Từ chỗ không được công nhận đến công nhận nhưng chưa coi trọng, sau đó được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế rồi động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, nhất là cho tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước.
Điều này được thể hiện rõ nét trong văn kiện các đại hội của Đảng, nh Nghị quyết số 10-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII (2017) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (2020), Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XIII (2023) về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, và đặc biệt gần đây nhất là Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước từng bước đã có sự đột phá mạnh mẽ theo hướng ngày càng coi trọng vai trò của kinh tế tư nhân và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát huy mạnh mẽ tiềm năng, nguồn lực trong công cuộc kiến quốc. Kinh tế tư nhân ngày càng được tạo môi trường thuận lợi để phát huy tối đa trí tuệ, sức sáng tạo, sự năng động, tính tiên phong mà Nghị quyết 68 mới được ban hành là bước đột phá quan trọng.
Nghị quyết 68 là cơ sở chính trị quan trọng, mở đường cho hoàn thiện thể chế và xây dựng các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới. Đồng thời, Nghị quyết cũng thể hiện niềm tin của Đảng và Nhà nước đối với tiềm năng và thế mạnh của kinh tế tư nhân, với sự năng động, sáng tạo và đóng góp của khu vực này cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Điểm mới quan trọng nhất trong Nghị quyết 68 chính là sự đổi mới tư duy về phát triển kinh tế tư nhân, cũng như đổi mới tư duy trong việc đánh giá về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân. Nghị quyết số 10 của Ban chấp hành Trung ương khoá XII năm 2017 đã là một bước tiến vượt bậc, khi đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng đến Nghị quyết 68, quan điểm này đã được nâng lên một bước cao hơn, khi nhấn mạnh kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
Điểm đổi mới tiếp theo là vai trò của Nhà nước với kinh tế tư nhân. Với Nghị quyết 68, vai trò của Nhà nước không đơn thuần là quản lý, mà thay vào đó là hỗ trợ và kiến tạo khu vực kinh tế tư nhân. Thể chế, tư duy và hành động là một tam giác thành công có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong tam giác này, thay đổi tư duy là quan trọng nhất và cũng là khó khăn nhất. Bởi thay đổi được tư duy mới thay đổi được hành động. Khi có tư duy đúng mới có được hành động đúng. Không những thay đổi về tư duy, Nghị quyết 68 còn thay đổi cách tiếp cận khi đề ra mục tiêu cụ thể cũng như đi vào các giải pháp then chốt để làm thế nào hỗ trợ cho từng nhóm doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ.
Đặc biệt, Nghị quyết 68 nhấn mạnh việc tạo ra sự bình đẳng giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế khác. Không những thế, Nghị quyết còn thể hiện rõ sự bảo vệ với khu vực kinh tế tư nhân, không chỉ về quyền kinh doanh bình đẳng mà còn bảo vệ từ quyền tài sản cho đến việc giảm thiểu rủi ro trước những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài. Điều này vô cùng quan trọng vì từ đó sẽ tạo được niềm tin và nhất là sự an tâm, để doanh nhân tập trung phát huy sức sáng tạo cho sản xuất kinh doanh, yên tâm làm giàu, làm giàu cho doanh nghiệp, làm giàu cho xã hội, cho đất nước.
Niềm tin và tính kiến tạo của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân còn được tiếp tục khẳng định khi Nghị quyết đã lần đầu tiên đặt vấn đề khu vực kinh tế tư nhân hoàn toàn có thể tham gia những nhiệm vụ lớn của quốc gia. Từ đó, một số doanh nghiệp đã mạnh dạn đề xuất góp sức trong các dự án tầm cỡ, chẳng hạn như đường sắt tốc độ cao. Khi được tạo điều kiện, doanh nghiệp tư nhân không chỉ có cơ hội mở rộng quy mô, tích lũy năng lực quản trị, tài chính và công nghệ, mà còn từng bước vươn ra thị trường quốc tế. Sự phát triển ngày càng lớn của nhiều doanh nghiệp sẽ kéo theo sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong chuỗi giá trị - tạo ra một hệ sinh thái doanh nghiệp bền vững và năng động.
Có thể nói, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị lần này đã đặt ra ba từ khóa cốt lõi trong chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đó là: Niềm tin, Được bảo vệ và Được tham gia.
Nhưng Nghị quyết 68 không chỉ thể hiện niềm tin của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân, mà còn tạo điều kiện để doanh nghiệp đặt niềm tin trở lại vào thể chế, và khi hai niềm tin cộng hưởng, đó sẽ là nền tảng để kinh tế tư nhân bứt phá.
Như vậy, Nghị quyết 68 của Bộ chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã tạo ra những đột phá quan trọng, tạo ra tiền đề để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, để có thể biến những tiền đề, biến cơ hội đó thành sức mạnh trong hoạt động thực tiễn, doanh nghiệp tư nhân cũng cần nhận thức được những điểm yếu cố hữu của mình, nhanh chóng bù đắp được những cái “thiếu” để phát huy cao nhất vai trò trong sự nghiệp phát triển của đất nước.
Cùng với tiến trình Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân nước ta đã không ngừng phát triển và có đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính đến năm 2024, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động của khu vực này đạt khoảng 900.000 doanh nghiệp; đã xuất hiện một số tập đoàn tư nhân lớn như Vingroup, Masan, Sun Group, Vietjet, THACO… Cùng với kinh tế tập thể và hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50,4% GDP, khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước và thu hút khoảng 85% lực lượng lao động. Khu vực kinh tế tư nhân còn góp phần quan trọng vào việc xoá đói, giảm nghèo, giảm chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn.
Mặc dù vậy, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam hiện đang phải đối mặt với 5 cái thiếu:
Một là, thiếu động lực phát triển (tình trạng doanh nghiệp không muốn lớn, hay chỉ phát triển đến một mức độ nào đó thì bán cho nước ngoài; tư duy phát triển ngắn hạn, trong nhiều trường hợp là vi phạm pháp luật, cạnh tranh không lành mạnh…).
Hai là, thiếu nội lực, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là thiếu vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực chất lượng cao, thông tin thị trường…
Ba là, thiếu định hướng phát triển dài hạn, kể cả từ phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp.
Bốn là, thiếu sự kết nối (giữa doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân với nhau, giữa khu vực kinh tế tư nhân với khu vực FDI, khu vực nhà nước và với chiến lược phát triển quốc gia).
Năm là, thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ hiệu quả (mặc dù cũng đã có khá nhiều cơ chế, chính sách).
Tất cả những điều đó đang khiến cho khu vực này hoạt động với hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh không cao, năng lực hội nhập quốc tế thấp, không vươn tầm được ra khu vực và quốc tế, trong nhiều trường hợp còn thua ngay trên sân nhà, năng lực đổi mới sáng tạo thấp. Nói cách khác, khu vực này chưa thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Có thể nói là “động mãi” mà chưa có “lực”. Trong 5 cái “thiếu” kể trên, cái “thiếu” thứ 5 có thể coi đã được Nghị quyết 68 giải quyết về cơ bản, còn lại 4 cái “thiếu” đầu cần nhiều hơn nỗ lực tự thân của doanh nghiệp.
Đây có thể coi là thời điểm không thể chậm trễ hơn nữa phải khắc phục những thiếu hụt kể trên, khơi dậy sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân, góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã được đề ra, nhất là trong bối cảnh thế giới đang có những biến động nhanh, mạnh, khó lường, nhiều thay đổi mang tính thời đại với những tác động nhiều chiều đến nền kinh tế nước ta.
Những giải pháp vượt trội, có tính cách mạng để vừa giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra trước mắt, vừa tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững, mạnh mẽ, lâu dài của khu vực kinh tế tư nhân cần sớm được chuyển hóa thành hành động và thực thi hiệu quả.


Bên trong nhà máy xe tại Hà Tĩnh của VinFast, khánh thành tháng 6.2025.
Trên cơ sở chỉ đạo và định hướng trong Nghị quyết 68-NQ/TW, quá trình thể chế hóa và tổ chức thực hiện cần tập trung vào những giải pháp cụ thể sau:
Một là, đổi mới tư duy, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; tạo đột phá về cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh.
Điều này đặc biệt quan trọng, bởi vì chỉ khi tư duy được đổi mới và có sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động, chúng ta mới có thể có được các cơ chế, chính sách thực sự phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của khu vực này.
Cần đổi mới tư duy bởi vì lâu nay chúng ta đang nhìn khu vực kinh tế tư nhân như là một khu vực yếu kém có nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ, hơn là nhìn khu vực này như là một khu vực đầy tiềm năng và cần có những những cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp để vươn lên bứt phá mạnh mẽ.
Nói một cách hình tượng, lâu nay chúng ta đang nói về khu vực kinh tế tư nhân như nói về con hổ nhưng trên thực tế lại coi nó như một con mèo. Cần có cách nhìn nhận khác, có thể hình hài bên ngoài của nó giống như là một con mèo, nhưng bên trong nó là cốt cách của một con hổ và với cách nhìn như vậy, chúng ta cần phải có những hỗ trợ để nó thực sự là một con hổ.
Cần đổi mới tư duy từ chú trọng quản lý sang kiến tạo phát triển; từ hỗ trợ trước đầu tư sang “thưởng” sau đầu tư. Cần tiếp tục khẳng định khu vực kinh tế tư nhân là một cấu phần không thể thiếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có vai trò quan trọng đặc biệt cho tăng trưởng; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là lực lượng nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và tạo đột phá, đưa nước ta sớm vượt qua nguy cơ tụt hậu, tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình và vươn lên phát triển thịnh vượng, đạt được các mục tiêu đã đặt ra đến năm 2030 và năm 2045.
Kinh tế tư nhân cần được tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển bình đẳng với các khu vực kinh tế khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều tiết của nhà nước theo pháp luật. Đồng thời cần triệt để thực hiện nguyên tắc kinh tế tư nhân được tham gia hoạt động và phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Tuy nhiên, đó mới là điều kiện cần, để tạo động lực thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển cần có điều kiện đủ, đó là phải tạo đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hay cụ thể hơn, là cần có "cuộc cách mạng" về minh bạch hóa, số hóa, thông minh hóa, tự động hóa trên cơ sở áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn để: (i) Xoá bỏ sự chồng chéo, không thống nhất, mâu thuẫn trong quy định của các luật có liên quan đến phát triển khu vực kinh tế tư nhân; (ii) Đơn giản hoá và minh bạch hóa các quy trình, thủ tục hành chính; cắt giảm mạnh các điều kiện kinh doanh không cần thiết (30%); giảm chi phí kinh doanh (30%), chi phí tuân thủ, chi phí không chính thức; giảm thời gian thực hiện các thủ tục (30%)…; (iii) Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, tránh trùng lặp; (iv) Xây dựng cơ chế tham vấn, đối thoại thường xuyên, liên tục rà soát để tháo gỡ các điểm nghẽn…
Tất cả những điều đó sẽ giúp khích lệ, tạo cảm hứng, gia tăng sự tin tưởng, khát vọng vươn lên và hành động mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Hai là, xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Việc xây dựng chiến lược phát triển khu vực kinh tế tư nhân sẽ giúp gắn sự phát triển của khu vực này với chiến lược phát triển chung của đất nước, hướng tới mục tiêu đặt ra đến năm 2030 và 2045. Việc xây dựng chiến lược phù hợp với từng nhóm doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân cũng sẽ giúp phát huy được ở mức cao nhất các tiềm năng, lợi thế của từng nhóm doanh nghiệp, đồng thời tạo sự kết nối phát triển của các nhóm doanh nghiệp với nhau, với khu vực nhà nước và khu vực FDI để tạo sức mạnh chung cho phát triển đất nước.
Chiến lược cần đặt ra các chỉ tiêu cụ thể cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân như tỷ trọng đóng góp trong GDP, tạo việc làm, thu ngân sách, năng suất lao động, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đổi mới sáng tạo… Đồng thời, trong chiến lược phải xác định rõ vai trò, vị trí của từng nhóm đối tượng như doanh nghiệp lớn phải có vai trò dẫn dắt, tiên phong, đầu ngành, dẫn đầu trong những ngành chiến lược, đổi mới sáng tạo, thâm nhập thị trường quốc tế, phát triển các chuỗi cung ứng, tham gia các dự án quốc gia…; doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp tăng trưởng và trưởng thành; doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh cá thể có vai trò tạo việc làm; doanh nghiệp khởi nghiệp có vai trò thử nghiệm các ý tưởng mới, hình thức kinh doanh mới, sản phẩm kinh doanh mới…
Chiến lược cũng cần xác định rõ định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực nhà nước đặt trọng tâm ưu tiên và các cơ chế, chính sách thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, cụ thể cho các nhóm đối tượng kể trên.
Ba là, thiết kế các cơ chế, chính sách hỗ trợ hiệu quả theo từng nhóm đối tượng trong khu vực kinh tế tư nhân.
Việc phân nhóm đối tượng hỗ trợ sẽ giúp có được các cơ chế, chính sách phù hợp với vai trò, vị trí, đặc thù của từng đối tượng và giúp họ phát huy được cao nhất tiềm năng, thế mạnh của mình.
Chẳng hạn, doanh nghiệp lớn cần “đường băng” để cất cánh, vươn xa ra thế giới, tham gia giải các bài toán lớn quốc gia với tinh thần “nắm to, bỏ nhỏ”; doanh nghiệp vừa cần đòn bẩy về tài chính, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, kết nối thị trường và quản trị để phát triển và trưởng thành thành doanh nghiệp lớn; doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cần “cái nôi” an toàn để hoạt động; doanh nghiệp khởi nghiệp cần “mảnh đất” phù hợp để thử nghiệm cái mới (sandbox, vườn ươm, quỹ mạo hiểm…); hộ kinh doanh cá thể cần được công nhận, hỗ trợ để phát triển thành doanh nghiệp…
Bốn là, thiết kế các cơ chế, chính sách để kết nối khu vực kinh tế tư nhân với chiến lược phát triển quốc gia, các chương trình phát triển quốc gia; các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân với nhau; khu vực kinh tế tư nhân với khu vực nhà nước và với khu vực FDI.
Điều này sẽ giúp nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp Việt Nam, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, tăng nội địa hóa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, tăng sức cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Để thực hiện điều đó, trước tiên cần xây dựng hệ sinh thái liên kết 3 nhà: Doanh nghiệp tư nhân - Nhà nước - FDI để doanh nghiệp “không tự bơi mà bơi theo đàn” thông qua việc:
(i) Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó có sự kết nối doanh nghiệp tư nhân, FDI với các trung tâm R&D, trường đại học, viện nghiên cứu, quỹ đầu tư mạo hiểm. Tạo nền tảng hợp tác phát triển sản phẩm, công nghệ mới, thúc đẩy chuyển đổi số, công nghệ xanh.
(ii) Xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đổi mới sáng tạo tích hợp: Mô hình như Silicon Valley Việt Nam, khu công nghiệp - công nghệ cao - đô thị thông minh gắn kết giữa doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ, FDI, khởi nghiệp. Kết nối giữa nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, đầu tư và quản trị chính sách.
(iii) Có chính sách thúc đẩy "nội địa hóa" thông qua liên kết giữa FDI và doanh nghiệp nội địa: Áp dụng tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc trong một số lĩnh vực chiến lược (ô tô, điện tử, công nghệ cao). Hỗ trợ doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực để đáp ứng tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi cung ứng FDI…
Để kết nối giữa các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân cần: (i) Khuyến khích phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ doanh nghiệp; xây dựng các mạng lưới, nền tảng số để doanh nghiệp dễ dàng kết nối, chia sẻ thông tin, tìm kiếm đối tác, liên kết chuỗi cung ứng. (ii) Xây dựng các chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị: Khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, kết nối với các doanh nghiệp vừa, nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành trong các lĩnh vực như: Công nghiệp hỗ trợ, chế biến nông sản, công nghệ thông tin, công nghiệp sáng tạo. Tổ chức các diễn đàn, hội chợ, hội thảo doanh nghiệp…
Để kết nối giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu vực nhà nước cần: (i) Thiết lập các kênh đối thoại trực tiếp giữa doanh nghiệp tư nhân và Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương. Xây dựng cơ chế phản hồi nhanh để giải quyết kịp thời các vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp; (ii) Thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ công như khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án lớn như hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục, môi trường... (iii) Ưu tiên doanh nghiệp tư nhân nội địa trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội như các dự án đầu tư công, chương trình chuyển đổi số quốc gia, chương trình đổi mới công nghệ... (iv) Hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia (Quỹ đổi mới công nghệ, Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng...)…
Để kết nối khu vực kinh tế tư nhân và khu vực FDI cần: (i) Xây dựng các chương trình liên kết chuỗi cung ứng giữa FDI và doanh nghiệp nội địa, đặc biệt trong các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế tạo, công nghệ cao. Khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam. (ii) Xây dựng Trung tâm liên kết, tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, trung tâm xúc tiến công nghiệp hỗ trợ, trung tâm liên kết doanh nghiệp FDI - nội địa tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm. Tổ chức các buổi gặp gỡ, kết nối doanh nghiệp để doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận các tập đoàn lớn. (iii) Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư cho FDI có cam kết liên kết, chuyển giao công nghệ, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam. Yêu cầu các dự án FDI lớn có kế hoạch phát triển chuỗi cung ứng nội địa ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án…
Năm là, tập trung phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chung đồng bộ, hiện đại, tạo điều kiện hoạt động thuận lợi cho doanh nghiệp.
Bao gồm các hạ tầng cứng, hạ tầng mềm, hạ tầng dữ liệu, tri thức như: (i) Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các trục đường sắt đô thị, các trục hạ tầng kết nối các trung tâm/vùng kinh tế; hệ thống cảng biển, trung tâm logistics đạt chuẩn quốc tế; các khu vực thương mại tự do, phi thuế quan, các trung tâm hàng quá cảnh khu vực; (ii) Xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu mở để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận.
Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; quản lý của nhà nước; hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi, thúc đẩy liên kết… của các hiệp hội doanh nghiệp.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân. Đây thực sự là một nghị quyết mang tính hành động, vì vậy, cần phải nhanh chóng thể chế hóa và đưa nghị quyết vào cuộc sống. Chủ trương đã có, bây giờ là lúc tổ chức thực hiện với vai trò của các cấp các ngành, nhất là các địa phương và vai trò của chính khu vực kinh tế tư nhân.
Một điểm rất quan trọng nữa không thể không nhắc tới là cần chú trọng việc xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực ngoài Nhà nước, nhất là trong doanh nghiệp tư nhân, bảo đảm hoạt động của doanh nghiệp hướng tới các mục tiêu xã hội và phát triển bền vững.
Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp để các tổ chức này làm tốt vai trò tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, doanh nhân tư nhân trong nước, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, phản biện chính sách, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh, đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho các hội viên.
Điểm cuối cùng nhưng cũng rất quan trọng là cần chuẩn hóa hệ thống chỉ tiêu, số liệu thống kê bảo đảm phản ánh toàn diện, chính xác và thực chất về khu vực kinh tế tư nhân; làm cơ sở tin cậy để đánh giá, hoạch định chính sách, chiến lược phát triển phù hợp cho từng giai đoạn.
***
Thế giới đang có những chuyển biến nhanh chóng; các quốc gia đều đang nỗ lực tăng tốc, vươn lên. Nguy cơ tụt hậu đối với Việt Nam đang hiện hữu và ngày càng lớn hơn nếu không có những hành động quyết liệt, đổi mới mạnh mẽ và quyết tâm cao độ để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng bền vững. Đảng đã có chỉ đạo, Quốc hội đã thông qua, Chính phủ đang rất quyết tâm và tích cực triển khai.
Với vai trò, vị trí là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia - đã được khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam, hơn lúc nào hết, cần được khơi dậy, cởi bỏ các rào cản để phát triển mạnh mẽ, hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước ta đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao./.
Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.
Năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.
Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.
Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đã và đang có thể tiếp tục nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.
Trân trọng giới thiệu tới độc giả!