PGS.TS. Ngô Trí Long: “Cần tìm giải pháp tăng cung tiền và hạ lãi suất cho nền kinh tế”
Theo chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Ngô Trí Long, trong bối cảnh lạm phát thế giới vẫn ở mức cao, lãi suất tiếp tục cao, nguyên liệu đầu vào phụ thuộc vào bên ngoài nên sức ép lạm phát của Việt Nam vẫn rất lớn.
Nhìn vào thực trạng “cả cung tiền lẫn tốc độ tăng trưởng tín dụng hiện đều giảm”, chuyên gia cho rằng: Lúc này, ngân hàng, doanh nghiệp cần “bắt tay” nhau trên tinh thần cầu thị, nghiêm túc để tìm ra những khó khăn then chốt và cùng tháo gỡ. Bởi đây là mối quan hệ cộng hưởng, vì lợi ích chung. Nếu mỗi bên đều giữ quan điểm riêng mà không chịu “sửa mình” thì cả doanh nghiệp và ngân hàng sẽ rơi vào khủng hoảng.
*****
Năm 2023, Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 6,5%. Dù thấp hơn kết quả đạt được của năm 2022 (8,02%), nhưng đây được đánh giá là mục tiêu đầy thách thức. Không nằm ngoài dự đoán, tình hình kinh tế - xã hội quý I/2023 vừa được Tổng cục Thống kê công bố trong tuần qua phần nào đã cho chúng ta thấy những khó khăn bao trùm toàn nền kinh tế.
Theo đó, tăng trưởng GDP đạt 3,32% so với cùng kỳ năm 2022, chỉ cao hơn tốc độ tăng 3,21% của quý I/2020 (trong giai đoạn 2011 - 2023). Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4%, làm giảm 4,76%; còn khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%.
Trong bối cảnh đó, bài toán đặt ra là trong 3 quý còn lại, cần những hành động gì để đạt được mục tiêu tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô? Việt Nam sẽ đối mặt với những thách thức gì và đâu là giải pháp thúc đẩy nền kinh tế phục hồi, phát triển?
Để cung cấp một góc nhìn trong việc giải bài toán đó, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam (Reatimes) đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Ngô Trí Long, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học - Đào tạo, Trường Đại học Thành Đông, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính).
KHÔNG NÊN QUÁ BI QUAN, NHƯNG KHẢ NĂNG PHỤC HỒI CỦA DOANH NGHIỆP LÀ RẤT THÁCH THỨC
PV: Thưa chuyên gia, nhìn vào kết quả tình hình kinh tế - xã hội quý I năm nay với tốc độ tăng GDP đạt 3,32% so với cùng kỳ năm trước, ông có suy nghĩ gì?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Đầu tiên, qua những kết quả của quý I/2023 vừa được Tổng cục Thống kê công bố cho thấy: Kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Mặc dù tăng trưởng năm 2022 rất cao, ở mức 8,02%, nhưng sang đến quý I năm nay, chúng ta vẫn chưa thể bứt phá.
Trong 12 năm qua, từ 2011 - 2023, tốc độ tăng trưởng GDP quý I năm nay có thể coi là rất chậm.
Trong khi đó, mục tiêu tăng trưởng Quốc hội đề ra cho năm 2023 là 6,5%. Như vậy, để thực hiện được mục tiêu này, 9 tháng còn lại quá nhiều thách thức. Theo Tổng cục Thống kê, nếu muốn đạt tăng trưởng 6,5% thì 3 quý còn lại, bình quân mỗi quý cần đạt được mức tăng trưởng tối thiểu 7,5%.
Trong cơ cấu tăng trưởng quý I, khu vực dịch vụ tăng tương đối cao, 6,79%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng 2,52%; ngược lại khu vực công nghiệp và xây dựng giảm mạnh. Kết quả này cho thấy một biểu hiện tốt: Nông nghiệp vẫn là ngành đóng vai trò bệ đỡ cho nền kinh tế.
Nhưng bên cạnh đó, công nghiệp và xây dựng giảm do xuất nhập khẩu giảm. Quý I năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154 tỷ USD, giảm khoảng 13% so với cùng kỳ năm trước; trong đó xuất khẩu giảm khoảng 12%, nhập khẩu giảm 14,7%. Mặc dù vẫn tăng so với tháng trước nhưng tốc độ tăng không cao, so với cùng kỳ năm 2022 là giảm. Cán cân thương mại thặng dư, vẫn xuất siêu 4 tỷ USD nhưng đây là dấu hiệu không tốt.
Nguyên nhân dẫn đến kết quả này là do kinh tế khó khăn, đơn hàng sụt giảm, trong khi đó chi phí sản xuất đầu vào tăng, nhiên liệu, chi phí vận tải, logistics đều tăng… nên các doanh nghiệp rất khó khăn. Chi phí tăng làm tăng áp lực lạm phát, cho nên chính điều này tiềm ẩn rủi ro cho kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể và khách quan, dù kết quả kinh tế - xã hội quý I vừa qua so với cùng kỳ năm trước không khả quan và còn nhiều “gập ghềnh”, nhưng so với xu thế khó khăn chung của khu vực và thế giới, chúng ta cũng cần ghi nhận đây là kết quả vẫn có điểm tích cực và không nên quá bi quan.
PV: Nhiều dự báo cho thấy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sẽ tiếp tục tăng lãi suất. Nhiều tổ chức quốc tế và chuyên gia cũng cho rằng, năm 2023 thương mại quốc tế suy giảm, kinh tế thế giới có thể rơi vào suy thoái.
Những dấu hiệu và biểu hiện này có ảnh hưởng như thế nào đến kinh tế Việt Nam, thưa ông?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Với sự đổ vỡ và khó khăn của một số ngân hàng trên thế giới, nhiều người nghĩ rằng lãi suất của Mỹ sẽ giảm, nhưng không, nó vẫn tiếp tục tăng. Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng tương tự. Khi lãi suất tăng làm cho hoạt động thương mại quốc tế giảm. Một số tổ chức quốc tế lo ngại với tình hình hiện nay, kinh tế thế giới có thể sẽ đối mặt với nguy cơ suy thoái.
Việc lãi suất tăng cao sẽ tạo nên áp lực tỷ giá với đồng Việt Nam (VND), buộc Ngân hàng Nhà nước phải có chính sách điều chỉnh tỷ giá, trong khi mục tiêu của chúng ta vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô.
Thành ra khi lãi suất đồng EUR tăng thì chắc chắn đồng USD tăng giá, mà khi đồng USD và EUR tăng giá thì chắc chắn các mặt hàng nhập khẩu của chúng ta sẽ tăng giá. Chính vì thế, nguồn nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào làm cho chi phí tăng rất cao.
Hiện nay, một trong những nguồn lực quan trọng đối với sản xuất của doanh nghiệp là dựa vào vốn vay. Khi lãi suất tăng, đồng USD tăng làm cho áp lực chi phí vốn của các doanh nghiệp tăng cao. Chi phí cao thì giá cao, mà giá cao thì tiêu thụ sẽ rất khó khăn.
Vì thế, khả năng phục hồi của các doanh nghiệp rất thách thức.
Hay khi lãi suất của đồng USD tăng, làm cho giá trị của đồng USD tăng lên, nếu không có điều chỉnh kịp thời thì giá trị của VND sẽ giảm. Từ đó, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới thị trường ngoại hối của Việt Nam.
Cũng do tình hình kinh tế thế giới khó khăn, theo số liệu thống kê, lượng kiều hối quý I giảm, điều đó ảnh hưởng không tốt đến kinh tế nước ta.
Khi kinh tế thế giới suy giảm và được dự báo là có khả năng suy thoái, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa của các nước, hay các đơn hàng quốc tế đối với Việt Nam chắc chắn sẽ giảm, khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu của chúng ta cũng giảm theo. Thực tế, hoạt động xuất khẩu đã giảm rất rõ trong quý I.
Tình hình như vậy, sẽ rất khó khăn cho hoạt động của một số ngành trong thời gian tới, đặc biệt là những ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn như da giày, dệt may hay ngành sản xuất linh kiện điện tử... và những ngành cần nhiều vốn để hoạt động, như bất động sản.
ĐA SỐ DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN SẼ TIẾP TỤC ĐỐI MẶT VỚI KHÓ KHĂN
PV: Như ông phân tích thì khi Fed tăng lãi suất sẽ đẩy giá trị của đồng USD lên. Giá trị USD tăng lên sẽ đẩy giá trị VND xuống, làm tăng tỷ giá của VND với USD, tạo ra sự bất ổn trên thị trường ngoại hối. Do lãi suất tăng nên khả năng vay vốn của doanh nghiệp sẽ giảm, khả năng phục hồi của doanh nghiệp cũng yếu đi.
Điều này có ảnh hưởng ra sao đến dòng vốn của thị trường bất động sản, thưa ông?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Hiện nay, một trong những khó khăn lớn nhất của thị trường bất động sản Việt Nam chính là dòng vốn. Thị trường bất động sản mà không có dòng vốn thì coi như nằm bất động. Trong bối cảnh xu hướng lãi suất tăng cao, nguồn kiều hối, đầu tư nước ngoài cũng giảm đã gây nên những khó khăn dồn dập cho thị trường bất động sản.
Đặc biệt, “quả bom” nổ rất lớn là vấn đề trái phiếu đã ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý và niềm tin cho thị trường bất động sản. Vừa rồi, Nghị định 08 sửa đổi Nghị định 65 đã tạo ra một số điểm mấu chốt để tháo “ngòi nổ” cho doanh nghiệp địa ốc. Thị trường bất động sản vận hành trên cơ chế cung - cầu, trong khi cầu của nhiều phân khúc, nhiều khu vực không tăng, vì niềm tin trên thị trường đã giảm đi rất nhiều, mà cung cũng khó khăn.
Tuy Nghị định 08 đã tạo ra cơ chế để tháo gỡ một phần những vướng mắc, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tận dụng để giải quyết được. Cho nên, trong bối cảnh đó, đa số doanh nghiệp bất động sản sẽ tiếp tục đối mặt với khó khăn. Chỉ những doanh nghiệp có năng lực, có chiến lược kinh doanh bài bản, có phương án tài chính tốt mới có khả năng phục hồi được.
Theo tôi, thị trường bất động sản chỉ có thể phục hồi trong một vài quý tiếp theo, có thể bắt đầu từ cuối năm 2023.
Bên cạnh đó, cũng cần phát huy hiệu quả chương trình phục hồi và phát triển kinh tế (kéo dài đến cuối năm 2023) để tạo ra những cơ hội mới cho thị trường bất động sản.
PV: Ông có nhắc đến sự suy giảm của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thực tế, dòng vốn này đến 20/3/2023 mới đạt 5,45 tỷ USD, chỉ bằng 62% so với cùng kỳ và có nguy cơ tiếp tục giảm.
Giải pháp là gì để khắc phục được tình trạng này và tăng cường dòng vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường bất động sản Việt Nam, thưa ông?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Bối cảnh chung của kinh tế thế giới đã ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam. Đặc biệt, trong cấu trúc nền kinh tế, do chính sách về trái phiếu doanh nghiệp có những bất ổn nên ảnh hưởng đến xu thế kinh tế chung. Do đó, đầu tư FDI cũng rất khó khăn, chỉ bằng 62% so với cùng kỳ.
Tuy nhiên, cũng có một triển vọng tốt là vừa qua, trong sự bất ổn của kinh tế thế giới, đã có một loạt 52 doanh nghiệp lớn của Mỹ đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư. Đây là một tín hiệu tốt cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế nước ta.
Từ đó, tôi cho rằng để tìm được giải pháp cải thiện thu hút đầu tư nước ngoài vào thị trường bất động sản Việt Nam, cần lưu ý đến 2 vấn đề:
Thứ nhất, chính sách tài khóa phải được thực hiện hết sức hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt phải hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp, bởi hiện nay áp lực chi phí đầu vào tăng rất cao, làm hạn chế sản xuất.
Nhìn chung, giai đoạn vừa qua, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã có hiệu quả tốt, chủ động, linh hoạt, kịp thời. Giai đoạn trước cần thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát còn trong bối cảnh hiện nay, đang bắt đầu nới rộng chính sách tiền tệ. Đó là bài toán vô cùng khó đối với Ngân hàng Nhà nước.
Nhưng giả sử lãi suất tiếp tục cao, nếu muốn tiếp tục sản xuất, điều hành giảm lãi suất thì phải bơm tiền ra, mà như vậy sẽ tác động rất lớn tới lạm phát, làm giảm tăng trưởng. Khi ấy, hành động cần và đủ là gì?
Thứ hai là nếu điều hành giảm lãi suất, thì lại có tác động ngược là làm tăng lạm phát, khi lạm phát tăng, nhà điều hành phải nâng lãi suất lên. Trong bối cảnh áp lực lạm phát còn rất cao như vậy mà lại cố gắng giảm lãi suất thì liệu có phải đi ngược xu thế hay không?
Về nguyên tắc, điều hành chính sách tiền tệ phải chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả. Cần tập trung lãi suất huy động và cho vay những lĩnh vực có trọng tâm, trọng điểm. Nhưng trong bối cảnh như vậy làm sao giữ được ổn định mặt bằng tỷ giá?
Hay một vấn đề hết sức quan trọng trong bối cảnh hiện nay là hoạt động của hệ thống ngân hàng chưa thật an toàn, ổn định. Đặc biệt, trong thời gian qua, hoạt động của ngân hàng cũng còn những bất cập ở công tác thanh tra, không phản ánh đúng, chưa cung cấp đầy đủ thông tin dẫn đến công tác giám sát, chỉ đạo không sát sao, hậu quả là câu chuyện của ngân hàng SCB. Do đó, cần đảm bảo sự an toàn, ổn định cho hoạt động của hệ thống ngân hàng thì mới tạo được lòng tin, mới có vốn.
Trong bối cảnh lạm phát thế giới tuy không quá cao nhưng vẫn sẽ tiếp tục ở mức cao, lãi suất tiếp tục cao, nguyên liệu đầu vào phụ thuộc vào bên ngoài nên sức ép lạm phát rất lớn, thì đây là một bài toán không hề đơn giản với chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Để ổn định kinh tế vĩ mô thì điều hành hiệu quả, linh hoạt hai chính sách đó là điều cực kỳ quan trọng.
LÃI SUẤT HUY ĐỘNG CÓ GIẢM NHƯNG LÃI SUẤT CHO VAY TẠI NHIỀU NGÂN HÀNG VẪN CAO
PV: Lạm phát thế giới vẫn ở mức cao, lãi suất USD tiếp tục tăng và cũng ở mức cao, nguyên liệu sản xuất trong nước phụ thuộc vào bên ngoài. Trong bối cảnh đó, sức ép đối với lạm phát trong nước là rất lớn. Điều này ảnh hưởng ra sao đến điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Về mặt nguyên lý, khi lạm phát tăng cao thì phải tăng lãi suất. Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế trong bối cảnh lạm phát thế giới đang tăng cao, lại đặt mục tiêu giảm lãi suất là cần xem xét lại. Như tôi phân tích, đây là nghịch lý, mâu thuẫn.
Trong tình hình của Việt Nam, mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay đặt ra cao hơn năm trước. Nhưng tại sao quý I vừa rồi, cả cung ứng tiền lẫn tăng trưởng tín dụng đều chỉ bằng một nửa cùng kỳ năm trước? Nguyên nhân là do:
Một là, hoạt động của các doanh nghiệp còn rất khó khăn. Mà khi khó khăn, nguồn vốn để doanh nghiệp hoạt động không cần nhiều. Khó khăn mà vay vốn nhiều thì lại ôm nợ vào để trả lãi cao.
Hai là, doanh nghiệp đang rất khó khăn, cho nên điều kiện vay vốn cũng rất khó đáp ứng, dẫn đến ngân hàng không thể cung ứng tiền, tín dụng không tăng được.
Trong bối cảnh như vậy, nguyên lý là: Lãi suất huy động phải luôn luôn thực dương thì người ta mới đi gửi tiền, nhưng thực chất, lãi suất huy động đang quá thực dương. Trong khi đó, lạm phát kiểm soát được trên 3%, lãi suất huy động vẫn ở mức 7-8%, thậm chí 9%.
Nguyên nhân bởi tính thanh khoản đang rất khó, vì ngân hàng huy động vốn ngắn hạn, cho vay trung dài hạn. Một số hoạt động cho vay có thanh khoản kém nên ngân hàng phải tiếp tục tăng cường huy động. Mà càng tăng cường huy động thì nền kinh tế càng đói vốn.
Chính vì vậy, ở đây phát sinh mâu thuẫn là mặc dù kiểm soát được lạm phát nhưng lãi suất huy động vẫn rất cao. Khi lãi suất huy động cao thì chắc chắn lãi suất cho vay cũng sẽ cao.
Trong tình hình đó, vừa qua đã có sự điều chỉnh đáng ghi nhận của Ngân hàng Nhà nước, khi quyết định điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, có hiệu lực từ ngày 3/4/2023. Đây là một sự nỗ lực, linh hoạt của chính sách tiền tệ.
Cụ thể:
Thứ nhất, lãi suất tái cấp vốn giảm từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giữ nguyên ở mức 3,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng giữ nguyên ở mức 6,0%/năm.
Thứ hai, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ mức 1,0%/năm xuống 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 6,0%/năm xuống 5,5%/năm, riêng lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND tại Quỹ tín dụng nhân dân, Tổ chức tài chính vi mô giảm từ 6,5%/năm xuống 6,0%/năm; Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do tổ chức tín dụng ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.
Thứ ba, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế giảm từ 5,0%/năm xuống 4,5%/năm; Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của Quỹ tín dụng nhân dân và Tổ chức tài chính vi mô đối với các nhu cầu vốn này giảm từ 6,0%/năm xuống 5,5%/năm.
Nhìn chung, để giúp ổn định kinh tế vĩ mô thì chính sách tiền tệ giữ vai trò vô cùng quan trọng. Ngân hàng cũng phải chủ động, linh hoạt, tập trung giữ ổn định tỷ giá, điều hành giảm lãi suất huy động nhưng lãi suất cho vay cũng phải giảm xuống.
Thực tế thời gian vừa qua, lãi suất huy động có giảm nhưng lãi suất cho vay tại nhiều ngân hàng vẫn cao. Đây là vấn đề cần được xem xét, giải quyết khẩn trương hơn.
GIẢI NGHỊCH LÝ "NGƯỜI ĂN KHÔNG HẾT, KẺ LẦN CHẲNG RA"
PV: Tính đến 20/3/2023, tổng phương tiện thanh toán (cung tiền) tăng 0,57% so với cuối năm 2022 (cùng thời điểm năm 2022 tăng 2,49%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 1,61%, chưa bằng một nửa cùng kỳ năm trước. Có những thông tin phản ánh rằng, hiện nhiều doanh nghiệp đã cạn tiền và phải chấp nhận "bán mình" lấy tài sản để có cơ hội hoạt động tiếp.
Theo ông, việc thiếu cung tiền cộng thêm mặt bằng lãi suất cao đã ảnh hưởng ra sao đến doanh nghiệp và nền kinh tế?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Lãi suất cao là một chi phí vốn, mà chi phí vốn là yếu tố quan trọng trong đầu vào hoạt động của doanh nghiệp. Khi chi phí vốn cao thì ảnh hưởng tới sản xuất, tăng trưởng; đồng thời chắc chắn đầu ra cũng sẽ cao, ảnh hưởng tới lạm phát, tới ổn định kinh tế vĩ mô. Khi tăng trưởng ảnh hưởng và lạm phát tăng cao, sẽ ảnh hưởng tới kinh tế vi mô.
Ví dụ, nếu lãi suất tiếp tục tăng cao, nguyên liệu đầu vào tăng cao, thì sức ép lạm phát đối với nước ta là rất lớn. Đồng thời, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Rất nhiều doanh nghiệp đang đứng bên bờ vực thẳm và không loại trừ khả năng phá sản, rất cần vốn nhưng không đáp ứng được điều kiện cho vay, nên không thể vay được ngân hàng.
Chính vì vậy, lượng cung ứng tiền cũng như tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng rất thấp, chứ không phải do ngân hàng thắt chặt.
- PGS.TS. Ngô Trí Long -
Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay cao hơn năm ngoái, nhưng tại sao trong quý I lại giảm mạnh, cả cung tiền lẫn tốc độ tăng trưởng tín dụng?
Là vì chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước luôn sẵn sàng đáp ứng mục tiêu phục vụ kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nhưng hiện nay, nhiều doanh nghiệp không đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện vay vốn của ngân hàng. Đó chính là mâu thuẫn.
Khi doanh nghiệp đi vay đáp ứng được các tiêu chuẩn cho vay, ngân hàng sẵn sàng mở “hầu bao”. Nhưng bản thân ngân hàng cũng là một doanh nghiệp và cũng cần đảm bảo tính an toàn của hệ thống. Nếu những doanh nghiệp đi vay không đáp ứng đủ điều kiện và tiêu chuẩn mà ngân hàng lại cho vay thì không khác gì “thả gà ra để đi đuổi”. Cuối cùng, nếu xảy ra những rủi ro mất an toàn cho hệ thống ngân hàng như nợ xấu tăng cao thì rất nguy hiểm.
Chính vì vậy, mặc dù mục tiêu tăng trưởng tín dụng của năm nay vẫn cao hơn năm trước, nhưng quý I cung ứng tiền và tăng trưởng tín dụng đều thấp là do 2 nguyên nhân:
Thứ nhất, thường thì trong quý I, trước những khó khăn, thách thức chung của kinh tế thế giới, đơn hàng xuất nhập khẩu sẽ giảm đi, sản xuất giảm nên nhu cầu vay vốn giảm.
Thứ hai, rất nhiều doanh nghiệp đang đứng bên bờ vực thẳm và không loại trừ khả năng phá sản, rất cần vốn nhưng không đáp ứng được điều kiện cho vay, nên không thể vay được ngân hàng. Chính vì vậy, lượng cung ứng tiền cũng như tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng rất thấp, chứ không phải do ngân hàng thắt chặt.
Trong tình hình đó, cần thêm những giải pháp từ chính sách tài khóa để hỗ trợ cho điều hành chính sách tiền tệ. Đồng thời, bản thân các doanh nghiệp cũng cần có giải pháp tái cơ cấu hướng đến hoạt động hiệu quả, thích ứng kịp thời, chứ không thể chỉ trông chờ vào Nhà nước.
PV: Có một thực trạng là các doanh nghiệp bất động sản nói riêng và cộng đồng doanh nghiệp nói chung liên tục kiến nghị đang thiếu và khó tiếp cận tín dụng. Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước thông tin, tín dụng tăng trưởng thấp trong bối cảnh room tín dụng dồi dào, thanh khoản hệ thống dư thừa, các điều kiện cấp tín dụng vẫn được Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên. Đây có phải là một nghịch lý không, thưa ông?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Hoàn toàn chính xác. Một bên là những doanh nghiệp đang đói vốn và “hấp hối”, một bên hệ thống tổ chức tín dụng có tiền nhưng không thể cho vay.
Đó là nghịch lý “người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra”. Hiện nay, các ngân hàng đang rất thận trọng bởi bài học nợ xấu trong quá khứ vẫn còn nguyên.
Cho nên, tại cuộc họp giữa ngân hàng với các doanh nghiệp bất động sản, 2 bên đều chưa đi đến một kết quả “chung kết”. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thông tin rằng, có những doanh nghiệp thực hiện hàng chục, hàng trăm dự án cùng một lúc thì làm sao hiệu quả được. Doanh nghiệp đói vốn nhưng hoạt động kinh doanh không hiệu quả, gây ra nghịch lý này.
Tại sao đến giờ vẫn chưa giải quyết được nghịch lý? Là vì doanh nghiệp chưa cải thiện được điều kiện đi vay. Thời gian qua, Chính phủ cũng đã rất nỗ lực để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bản thân các doanh nghiệp bất động sản cũng phải tự nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của mình. Ví dụ, phải bán bớt tài sản đi để có vốn hoạt động.
Hay “quả bom nổ chậm” trái phiếu doanh nghiệp cũng cần tìm cách tháo gỡ triệt để, lấy lại niềm tin cho nhà đầu tư. Theo quan sát của tôi thì đã có một số doanh nghiệp khởi sắc trở lại.
Ở phía ngân hàng, khi đã huy động được nhiều mà không cho vay được thì cũng nguy. Bởi nếu không cho vay hiệu quả sẽ vẫn phải trả lãi cho người gửi. Nếu doanh nghiệp chết, không hoạt động tốt sẽ ảnh hưởng đến ngân hàng. Cho nên, vẫn cần phải có sự liên kết, bàn bạc, tìm giải pháp rất cụ thể, chứ không thể như hiện nay.
TRONG MỐI QUAN HỆ CỘNG HƯỞNG, NẾU MỖI BÊN ĐỀU GIỮ QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH THÌ CẢ DOANH NGHIỆP VÀ NGÂN HÀNG ĐỀU KHỦNG HOẢNG
PV: Theo ông, đâu là giải pháp để các tổ chức tín dụng tăng cường giải ngân cho thị trường bất động sản, để cùng doanh nghiệp bất động sản thoát nguy?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Giải ngân cần hiệu quả, có trọng tâm, tùy từng đối tượng.
Để giải quyết vấn đề này, tôi cho rằng, ngân hàng và doanh nghiệp cần “bắt tay” nhau trên tinh thần cầu thị, nghiêm túc để tìm ra những khó khăn, điểm then chốt để tháo gỡ. Như hiện nay, dường như mỗi bên đều đang bảo vệ quan điểm của riêng mình: Một bên bảo rất cần vốn; một bên bảo thừa vốn, không siết tín dụng.
Theo tôi, tùy từng doanh nghiệp, từng đối tác mà có những phương pháp, những yêu cầu khác nhau, chứ không phải chỉ đưa ra giải pháp chung chung.
Có những doanh nghiệp do pháp lý dự án chưa đảm bảo nên khó vay vốn, thì cần tập trung xử lý những vấn đề pháp lý trước để phương án kinh doanh có hiệu quả hơn. Tóm lại, khó khăn gì thì phải có giải pháp tháo gỡ cụ thể, đồng thời trao đổi cụ thể, bàn bạc với Ngân hàng Nhà nước.
Với lĩnh vực bất động sản là ngành cần vốn lớn để kinh doanh, vì thế các ngân hàng thương mại thường thích cho doanh nghiệp bất động sản vay, sẽ đem lại hiệu quả và lợi nhuận tốt hơn. Ở đây là mối quan hệ cộng hưởng, vì lợi ích chung. Nếu mỗi bên đều giữ quan điểm riêng mà không chịu “sửa mình” thì cả doanh nghiệp và ngân hàng đều khủng hoảng.
Ngân hàng và doanh nghiệp cần “bắt tay” nhau trên tinh thần cầu thị, nghiêm túc để tìm ra những khó khăn, điểm then chốt để tháo gỡ.
Như hiện nay, dường như mỗi bên đều đang bảo vệ quan điểm của riêng mình: Một bên bảo rất cần vốn; một bên bảo thừa vốn, không siết tín dụng.
- PGS.TS. Ngô Trí Long -
PV: Vấn đề mấu chốt cần quan tâm hiện nay là tăng cung tiền - tổng phương tiện thanh toán và giảm lãi suất. Theo ông, Việt Nam cần làm gì để đạt được cả hai mục tiêu này?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Vấn đề này phụ thuộc vào việc chúng ta có kiểm soát lạm phát được hay không. Việt Nam cần ổn định vĩ mô. Khi đã kiểm soát được lạm phát, đồng thời giảm được lãi suất thì sẽ tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế cao. Khi tăng trưởng kinh tế khả quan hơn thì lượng cung ứng tiền sẽ được mở rộng ra.
Chúng ta cần tìm những giải pháp mà ở đó, không phải chỉ Ngân hàng Nhà nước giữ vai trò chủ chốt quyết định vấn đề kiểm soát lạm phát và tốc độ tăng trưởng, mà các giải pháp khác phải đồng bộ, cả về tài chính, thương mại, biện pháp hành chính, tổ chức quản lý thị trường, công tác quản lý giá cả…
XU HƯỚNG LÃI SUẤT SẼ GIẢM, NHƯNG GIẢM DẦN DẦN
PV: Sự thực là bài toàn giảm lãi suất sẽ rất khó đối với Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng. Ông dự đoán từ nay đến cuối năm 2023, chúng ta có thể giảm được lãi suất hay không?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Việc giảm lãi suất điều hành là động thái đáng ghi nhận của Ngân hàng Nhà nước. Nhưng để giữ được xu hướng điều hành này là điều không đơn giản, bởi trong bối cảnh hiện nay, thách thức về lạm phát vẫn rất lớn. Kinh tế thế giới vẫn đang biến động rất mạnh, với nhiều rủi ro. Dự báo giá nhiên liệu, giá xăng dầu trong năm 2023 sẽ giảm so với năm 2022 nhưng vẫn ở mức cao. Chi phí nguyên liệu đầu vào vẫn tiếp tục tăng cao, đơn đặt hàng vẫn thấp, sản xuất của doanh nghiệp còn khó khăn, cho nên tốc độ tăng trưởng cũng sẽ gặp rào cản. Tới đây, tăng trưởng GDP quý II sẽ sáng hơn, nhưng dự báo cũng chỉ đạt khoảng 6%. Cho nên, mục tiêu tăng trưởng GDP năm nay đạt 6,5% là rất thách thức.
Dự báo lãi suất khó có khả năng giảm, giữ được mức như hiện tại cũng đã là rất khó khăn. Nhưng theo xu hướng, lãi suất huy động sẽ tiếp tục giảm. Khi lượng cung ứng tiền cho nền kinh tế bắt đầu đi vào quỹ đạo, sản xuất phục hồi, phát triển thì chắc chắn lượng cung tiền ra sẽ tăng, lãi suất sẽ hạ. Cho nên, khả năng xu hướng lãi suất cao như năm 2022 sẽ không lặp lại. Xu hướng chung là sẽ giảm, nhưng giảm dần dần.
PV: Thưa chuyên gia, trong trường hợp lãi suất vẫn cao, không thể hạ hoặc hạ được rất thấp thì giải pháp để hỗ trợ được cho doanh nghiệp và nền kinh tế là gì?
PGS.TS. Ngô Trí Long: Tôi cho rằng chúng ta phải kết hợp đồng bộ các giải pháp. Ví dụ như:
Chính sách tài chính hỗ trợ trực tiếp để giảm chi phí đầu vào cho người dân, doanh nghiệp, mà chủ yếu là thuế. Cần xem xét các loại thuế, phí.
Chính sách tài chính phải thực sự có hiệu quả, giảm những chi tiêu không hợp lý, cân đối cung, cầu khi ảnh hưởng đến lạm phát.
Chính sách thương mại cần điều hòa cung cầu, đặc biệt là đối với những mặt hàng nguyên liệu đầu vào.
Hay một vấn đề quan trọng nữa là chính sách cải cách thủ tục hành chính cần bớt phiền hà, giảm thiểu tiêu cực.
Bên cạnh đó, cũng cần có những giải pháp ứng phó với một số hiện tượng sắp tới, như giá điện tăng, lương cũng tăng, khiến các mặt hàng khác cũng sẽ tăng.
Cần kiểm soát tốt để tránh “tát nước theo mưa”, dẫn đến hiện tượng domino tăng giá các mặt hàng bùng nổ, ảnh hưởng đến xu hướng chung.
Tóm lại, phải có nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó, 2 chính sách chính là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa giữ vai trò chủ chốt, trọng yếu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
PV: Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!