Mô tả những rủi ro có thể “mắt nhìn, tay sờ thấy”
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vừa qua có sự phát triển tương đối nhanh. 6 tháng đầu năm 2019, tổng lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp khoảng 60.000 tỷ đồng. Con số này đã bằng cả năm 2018. Tuy nhiên, các chuyên gia khẳng định, quy mô của thị trường trái phiếu doanh nghiệp so với nền kinh tế của Việt Nam vẫn chưa đáng kể so với các thị trường trong khu vực. Và đặc biệt chưa đúng tầm so với nhu cầu thực tế khi đây là một lĩnh vực khá mới. Cũng chính vì còn mới nên kinh nghiệm phát hành và đầu tư của bên cung, bên cầu và cả quản lý đều chưa nhiều kinh nghiệm.
Theo nhóm phân tích của Công ty Chứng khoán Vietcombank, với sự phát triển bùng nổ của trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) thời gian qua và việc hướng tới khách hàng cá nhân, điều băn khoăn là liệu đa số nhà đầu tư cá nhân hiện nay có đủ điều kiện, công cụ, thông tin… để đánh giá được chất lượng tài sản đảm bảo, khả năng sinh lời, khả năng thu hồi vốn từ tổ chức phát hành hay không?
Cái dở nhất mà đơn vị phát hành đánh trúng vào tâm lý mua trái phiếu là nhà đầu tư thường bị ham lãi cao và quên mất rằng tài sản bảo đảm có an toàn hay không.
Đơn cử như, một doanh nghiệp phát hành trái phiếu có tài sản bảo đảm với mức lãi suất trên 14%, trong đó tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất đối ứng của dự án theo hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) mà doanh nghiệp có. Tuy nhiên, dự án BT này dù đã ký, nhưng doanh nghiệp chưa động thổ cho dự án BT đối ứng để nhận đất. Nghĩa là, tài sản bảo đảm cho trái phiếu là một tài sản chưa hình thành, thậm chí không biết có hình thành nổi hay không.
Lại có doanh nghiệp phát hành trái phiếu bảo đảm bằng cổ phiếu của chính mình, hoặc cổ phiếu do một doanh nghiệp khác phát hành. Thống kê dữ liệu phát hành cho thấy, ngoại trừ các đợt phát hành trái phiếu của ngân hàng, công ty chứng khoán, nhiều đợt phát hành của doanh nghiệp lớn được bảo lãnh thanh toán bởi chính một doanh nghiệp trong hệ thống và cổ phiếu của một doanh nghiệp niêm yết/chưa niêm yết khác.
Tuy nhiên, tại một số trường hợp khác, trái phiếu được bảo lãnh bởi sở hữu tại một công ty xa lạ, thậm chí dùng công cụ Google để tìm kiếm cũng hầu như không thấy thông tin. Loại tài sản đảm bảo không có thông tin rõ ràng.
Ở góc nhìn của người làm tại công ty bảo hiểm, nhiều đơn vị cho phép doanh nghiệp phát hành trái phiếu là công ty niêm yết nhưng nay chỉ còn là cái xác bán tài sản bảo đảm mà nhiều trái chủ không hề biết. Khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, mất thanh khoản, trái phiếu đến hạn không thanh toán được, thì trái chủ mới giật mình vì tài sản bảo đảm cũng bằng không.
Hoặc có trường hợp doanh nghiệp tự phát hành và tự công bố tài sản đảm bảo, không có tổ chức nào là chủ thể đảm bảo hoặc trung gian giám sát chất lượng tài sản bảo đảm của doanh nghiệp.
Trong khi đó, thị trường hiện đang thiếu các tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, nên chưa có hệ tham chiếu về uy tín, năng lực của tổ chức phát hành. Do vậy, nhà đầu tư cá nhân, những người không có đủ thông tin và công cụ để thẩm định về năng lực thực sự của tổ chức phát hành. Khiến cho rủi ro đầu tư phát sinh từ đây.
Theo khảo sát của Reatimes đối với những nhà đầu tư lâu năm, một loại rủi ro nữa cả đơn vi phát hành và nhà đầu tư cẩn trọng đó là việc bán qua tay trái phiếu ăn chênh. Một số đơn vị mua thứ cấp để bán lại chứ không đầu tư thực sự khiến cho nhu cầu thực của thị trường bị xáo trộn. Và trong một vài trường hợp, các giao dịch này có lẽ mang tính nhảy cóc hơn là mua sỉ - bán lẻ, bởi nhiều trái phiếu thậm chí không được chào bán lại qua đội ngũ môi giới.
Rủi ro kế tiếp mà nhà đầu tư nên cẩn trọng là việc đơn vị phát hành trái phiếu để nuôi nợ. Nhiều lãnh đạo công ty tư vấn phát hành thừa nhận, trên thực tế, đúng là rất nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn phát hành trái phiếu nhằm mục đích cơ cấu nợ tại các tổ chức tín dụng
Tuy vậy, nhà đầu tư cũng nên phân biệt, không phải tất cả các doanh nghiệp phát hành trái phiếu với mục đích cơ cấu lại nợ đều xuất phát từ động cơ nuôi nợ. Một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu để cơ cấu lại các khoản nợ nhằm giảm chi phí tài chính trong điều kiện mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm. Nhu cầu này của doanh nghiệp là hoàn toàn chính đáng.
Do vậy, theo Công ty Chứng khoán Bảo Việt, nên hạn chế việc tổ chức tín dụng (TCTD) đầu tư trái phiếu doanh nghiệp để cơ cấu cho chính khoản nợ tại TCTD đó. Hoặc có thể yêu cầu minh bạch thông tin trong hoạt động phát hành và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp cũng như tăng cường công tác kiểm tra, giám sát sau đầu tư. Và đặc biệt, nhà đầu tư trang bị kiến thức phòng vệ rủi ro, cơ quan chức năng có giải pháp kiểm soát.
Giảm thiểu rủi ro trông đợi từ đâu?
Từ những rủi ro cảnh báo trên có thể thấy, nhà đầu tư dễ thu lỗ nếu không phân tích kỹ. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp có những nguyên tắc, tiêu chuẩn để đầu tư hiệu quả tránh thua lỗ giống như cổ phiếu. Việc phân bổ tỷ trọng từng tài sản trong từng thời kỳ tùy thuộc vào kinh nghiệm, cũng như trình độ của nhà đầu chuyên nghiệp, nghiệp dư, cá nhân và tổ chức.
Còn đối với doanh nghiệp dòng tiền từ trái phiếu doanh nghiệp ổn định có thể hỗ trợ đòn bẩy cao, đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ nặng nề; doanh nghiệp với đòn bẩy hạn chế và yêu cầu nợ khiêm tốn, có thể sống sót qua các biến động nghiêm trọng của dòng tiền. Nhưng kết hợp giữa đòn bẩy cao và dòng tiền không đáng tin cậy có thể khiến doanh nghiệp mất khả năng trả nợ.
Do đó, ông Lê Đức Khánh, Phó Giám đốc Trung tâm phân tích, CTCK Dầu khí cho rằng, để giảm thiểu rủi ro, nhà đầu tư cần tiếp cận thông qua việc phân tích ngành, nghiên cứu vị thế doanh nghiệp, khả năng của ban quản trị, hệ số thanh toán lãi vay, cấu trúc vốn, các nguồn thanh khoản thay thế, giá trị thanh lý của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu vị thế doanh nghiệp chỉ ra rằng, quy mô hàng đầu trong mỗi ngành nghề, cần phải chú ý.
Trước khi đánh giá triển vọng của trái phiếu doanh nghiệp, việc phân tích báo cáo tài chính bao quát không quan trọng bằng vài đánh giá sắc sảo về viễn cảnh doanh nghiệp. Có nghĩa, nhà đầu tư cần áp dụng triệt để các bài kiểm tra định lượng để chứng minh doanh nghiệp có thu nhập trên chi phí lãi vay dư dả, và giá trị hiện tại của doanh nghiệp cao hơn nhiều so với nợ.
Thêm vào đó, nhà đầu tư phải cảm thấy an tâm với đánh giá cá nhân của mình, rằng doanh nghiệp có các đặc điểm để tiếp tục tồn tại và vận hành thành công trong tương lai, hay nói chính xác hơn đặc điểm để khiến thất bại không nhiều khả năng xảy ra. Trong việc lựa chọn trái phiếu để đầu tư, đánh giá viễn cảnh của doanh nghiệp phát hành là yếu tố then chốt.
Tiêu chuẩn tốt nhất có thể đưa ra nhằm mục đích đánh giá biên bộ tài sản trên số tiền nợ, là chỉ số giá trị thị trường của cổ phiếu vốn trên tổng nợ dài hạn. Nhà đầu tư cần cảnh giác với các số liệu vốn hóa, giá trị thị trường, dữ liệu kế toán hay bảng cân đối kế toán trong quá trình nghiên cứu dòng tiền của doanh nghiệp, trước khả năng đáp ứng, trả nợ của doanh nghiệp ngay cả trong môi trường kinh tế kém triển vọng.
Sự an toàn của nhà đầu tư vẫn còn bị xem nhẹ, bỏ ngỏ. Hiện có thực tế là nhà đầu tư, nhất là những người không chuyên, rất dễ bị dụ vào “ma trận” trái phiếu doanh nghiệp với lẫn lộn thông tin thật - giả, mập mờ. Đó là lý do mà các chuyên gia khuyến nghị, cơ quan chức năng cần phát triển thêm nữa các công cụ quản lý rủi ro, phòng chống rủi ro, hợp đồng mua lại và hợp đồng mua lại đảo ngược, phái sinh lãi suất, hoán vị rủi ro tín dụng và thị trường phái sinh, chứng khoán hóa...
Thực tế, thị trường vốn nào cũng có rủi ro nhưng rủi ro đó với trái phiếu doanh nghiệp vẫn có thể kiểm soát được, kiểm soát đúng đối tượng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn uy tín.
Hiện Chính phủ ban hành Nghị định 163/2018/NÐ-CP quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp với nhiều quy định mang tính cải tiến đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn qua phát hành trái phiếu. Ðiều này được minh chứng qua giá trị huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp tăng cao so với cùng kỳ năm 2018.
Mới đây, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh: “Phải thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp để giảm phụ thuộc vào kênh vốn của ngân hàng thương mại. Nếu vốn của doanh nghiệp mà dựa cả vào ngân hàng thương mại thì sẽ khó khăn. Do vậy, phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp là bước tất yếu. Doanh nghiệp có nhu cầu vốn mà họ phát hành được thì tốt, tăng vốn cho nền kinh tế. Nhưng nếu có bất thường, thiếu minh bạch hoặc thiếu an toàn thì phải chấn chỉnh”.
Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan lưu ý các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản phát hành trái phiếu doanh nghiệp khi đây không phải là kênh cần khuyến khích hiện nay, đang cần dẫn vốn đúng mục tiêu, liều lượng phù hợp.
“Chưa nói tới sai hay đúng gì mà thấy có hiện tượng nào bất thường thì phải lưu ý”, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết có thông tin doanh nghiệp phát hành trái phiếu với lãi suất rất cao, từ 12-14%/năm và lo ngại sẽ ảnh hưởng tới việc điều hành lạm phát, lãi suất đã được Chính phủ đặt mục tiêu từ trước.
“Vừa qua, nhiều đồng chí có trách nhiệm lo ngại về hiện tượng phát hành riêng lẻ mà lãi suất rất cao, không biết các ngân hàng thương mại có mua hay không, hay chỉ các nhà đầu tư tư nhân? Mặt bằng lãi suất có bị ảnh hưởng không? Bộ Tài chính phối hợp với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước sớm báo cáo việc này”, Phó Thủ tướng đề nghị.
Trước đó vào đầu tháng 7, tại cuộc họp của Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nhiều chuyên gia kinh tế là thành viên cũng đề nghị Chính phủ có đánh giá sát hơn thị trường bất động sản hiện nay, trong đó có việc các doanh nghiệp huy động vốn qua trái phiếu doanh nghiệp với lãi suất cao hơn lãi suất của ngân hàng có thể tác động tới các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô.
Vậy tính rủi ro trái phiếu trái phiếu bất động sản như thế nào, nằm ở vùng nào, thật sự rủi ro đến đâu, Reatimes sẽ tiếp tục bài sau,...
Tính đến giữa năm 2019, nhóm bất động sản đứng thứ 2 trong tổng số giá trị phát hành TP, với những thương vụ của CTCP Phát triển bất động sản Phát Đạt (PDR), CTCP Đầu tư Hạ tầng kỹ thuật TPHCM (CII), CTCP Tập đoàn Đất Xanh (DXG). Các CTCK cũng tận dụng cơ hội phát hành, phân phối TP đến nhà đầu tư cá nhân và tổ chức như TCBS, VPS, MSI, SSI, VCSC. |