
Triển vọng logistics Việt Nam và cơ hội phát triển của doanh nghiệp tư nhân
Chiến lược tổng thể phát triển Khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 531/QĐ-TTg ngày 01/04/2021 xác định dịch vụ logistics cùng với dịch vụ du lịch, dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông, dịch vụ tài chính - ngân hàng là 4 ngành dịch vụ hàng đầu được ưu tiên phát triển đến năm 2050.
Quyết định số 200/QĐ-TTg, ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, đã xác định: “Logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”.
Tại Diễn đàn logistics Việt Nam 2024, Thủ Tướng Chính phủ đã đề ra mục tiêu phải giảm chi phí logistics từ 18% xuống 15% trong năm 2025; nâng quy mô logistics trong GDP từ 10% lên 15%, phấn đấu đạt 20%; nâng quy mô logistics của Việt Nam trong quy mô logistics thế giới từ 0,4% lên 0,5%, phấn đấu đạt 0,6%; tốc độ tăng trưởng của ngành logistics 14 - 15% nâng lên 20%...
Làm thế nào để ngành logistics Việt Nam hiện thực hóa và đạt mục tiêu lớn hơn nhằm góp phần đẩy nhanh tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là bài toán đặt ra cho các ngành, địa phương và các doanh nghiệp trong kỷ nguyên mới.
Logistics không phải là khái niệm quá xa lạ, cho dù tồn tại một thực tế là không phải ai cũng am hiểu sâu sắc về nó. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, logistics đã xuất hiện từ lâu. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta vẫn chưa tìm được một thuật ngữ thống nhất, phù hợp để dịch từ logistics sang tiếng Việt. Có lúc logistics được dịch là hậu cần, có tài liệu lại dịch là tiếp vận hoặc cung ứng, đảm bảo, thậm chí là giao nhận… và các cách dịch đã đề cập đều chưa phản ánh một cách đầy đủ, đúng đắn về bản chất của logistics. Vì vậy, việc giữ nguyên thuật ngữ logistics không dịch sang tiếng Việt như trong Luật Thương mại (2005) là cần thiết, đồng thời bổ sung thuật ngữ logistics vào vốn từ tiếng Việt.
Tuy nhiên, điều đáng bàn là Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 (Điều 233), lần đầu tiên chỉ đưa ra khái niệm dịch vụ logistics và quy định: "Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao". Trong khi đó, các khái niệm logistics, hành vi logistics, hoạt động logistics, hệ thống logistics và quản trị logistics... chưa được đề cập và chưa phân định rõ các khái niệm này. Chính điều này đã dẫn đến nhận thức xã hội không đầy đủ và đúng đắn về bản chất logistics, thậm chí làm cho nhiều người, trong đó có cả các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý... coi logistics chỉ là dịch vụ vận tải hay dịch vụ giao nhận… Hệ lụy là nhiều chính sách phát triển logistics Việt Nam thiếu đồng bộ, chậm và khó đi vào cuộc sống, nhiều địa phương, thành phố trong Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2050 vừa được phê duyệt lại rất ít quan tâm đến các hoạt động logistics, chưa nói là đang bị lãng quên.
Logistics đã có nhiều đóng góp tích cực vào các hoạt động kinh tế, trước hết là xuất nhập khẩu, đưa hoạt động xuất khẩu thành một điểm sáng. (Ảnh minh họa)
Vì vậy, việc phân biệt và làm rõ nội hàm các khái niệm logistics, dịch vụ logistics, hành vi logistics, hoạt động logistics, hệ thống logistics và quản trị logistics... là rất cần thiết hiện nay, cả trong lần sửa đổi Luật Thương mại thời gian tới cũng cần phải tính đến. Thực tế, các khái niệm khác nhau về logistics được hình thành căn cứ vào góc độ nghiên cứu, ngành nghề và mục đích nghiên cứu về logistics hay dịch vụ logistics.
Dù tiếp cận theo cách nào thì một số định nghĩa hiện nay thường đồng nhất giữa logistics, dịch vụ logistics và quản trị logistics, chưa phân định rõ ràng các khái niệm này và chưa có các định nghĩa cụ thể về logistics. Chính vì thế, khi nghiên cứu logistics, cần tiếp cận logistics trên góc độ là một khoa học - khoa học tối ưu 3 dòng vận động hàng hóa, tiền tệ và thông tin trong cung ứng, là khoa học kết nối để đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra liên tục, thường xuyên và không bị gián đoạn (đứt gãy) với chi phí thấp nhất. Hay nói cụ thể hơn: Logistics là quá trình phân phối và lưu thông hàng hóa được tổ chức và quản lý khoa học việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm soát quá trình lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ... từ điểm khởi nguồn sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng với chi phí thấp nhất nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất - xã hội tiến hành được nhịp nhàng, liên tục và đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng.
Tiếp cận rộng hơn nữa, nói đến logistics là nói đến hiệu quả, nói đến tổ chức lao động khoa học, tối ưu hóa trong các ngành, các doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân. Tư duy logistics đồng nghĩa với tư duy hiệu quả cả quá trình, chuỗi cung ứng, nó đối lập với lợi ích cục bộ địa phương, lợi ích dự án, lợi ích nhóm mà làm tổn hại đến lợi ích toàn cục - lợi ích quốc gia. Còn trên góc độ là một ngành dịch vụ của nền kinh tế quốc dân, logistics là một chuỗi các hoạt động thương mại bao gồm các dịch vụ về vận chuyển, giao nhận, kho hàng, hải quan, tư vấn khách hàng và các dịch vụ khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ được tổ chức hợp lý và khoa học nhằm đảm bảo quá trình phân phối, lưu thông (quá trình cung ứng) diễn ra một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của khách hàng với chi phí thấp nhất.
Ngày nay, hiện diện trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, logistics đã phát triển nhanh chóng và mang lại nhiều thành công cho các công ty/tập đoàn đa quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, dịch vụ logistics đã và đang trở thành ngành dịch vụ quan trọng, mũi nhọn của nhiều địa phương, thành phố, đóng góp tích cực trong hoàn thiện khung pháp lý và thể chế, nâng cao vai trò vị thế trong nền kinh tế quốc dân theo định hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII.
Logistics đã có nhiều đóng góp tích cực vào các hoạt động kinh tế, trước hết là xuất nhập khẩu, đưa hoạt động xuất khẩu thành một điểm sáng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020, và năm 2022 đạt mức kỷ lục 735 tỷ USD, tăng 9,46% so với năm 2021). Năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm trước, vượt kỷ lục năm 2022. Trong đó, năm 2024, các doanh nghiệp tư nhân chiếm tới 35% tổng kim ngạch nhập khẩu và 25% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Trong nền kinh tế thị trường, logistics càng đóng vai trò quan trọng và là yếu tố không thể thiếu trong sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, đặc biệt là trong việc nâng cao hiệu quả các hoạt động sản xuất và kinh doanh ở mọi lĩnh vực.
Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành logistics bởi về mặt địa lý khi nằm ở vị trí chiến lược của khu vực, có “mặt tiền” hướng ra biển Đông, bờ biển trải dài, nhiều cảng biển, sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia… Bên cạnh đó, với việc ký kết và đi vào thực thi 15 Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam đã trở thành quốc gia mở cửa về thương mại, logistics và đầu tư; có nhiều cơ hội để tiếp cận các thị trường rộng lớn trên thế giới với các ưu đãi thương mại cho sản phẩm, hàng hoá. Chúng ta cũng có nhiều cơ hội để tiếp cận các thành tựu khoa học công nghệ mới nhất, phương thức quản lý tiên tiến của thế giới. Đồng thời, các hoạt động logistics ở nước ta dần được Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics phục vụ cho hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu…
Ngành logistics luôn giữ vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng khu vực kinh tế tư nhân, và sẽ góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3/6/2017, “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với Nghị quyết số 10-NQ/TW, kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân đã phát triển nhanh hơn, đặc biệt là các doanh nghiệp logistics, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm và cải thiện an sinh xã hội.
Hệ thống khuôn khổ pháp lý về logistics vẫn còn nhiều bất cập như: Chưa có chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển logistics, hệ thống văn bản, chính sách về logistics vẫn chưa hoàn thiện; cơ sở hạ tầng logistics còn yếu kém dẫn đến chi phí logistics cho các hoạt động kinh tế cao hơn nhiều so với các nước; nhiều vấn đề như cơ sở hạ tầng logistics, đặc biệt các khu công nghiệp logistics, trung tâm logistics và hệ thống kho hàng, bến bãi - bất động sản logistics lại chưa được quan tâm, đầu tư và phát triển tương xứng, chưa được luật hóa, nhiều chính sách pháp luật Việt Nam vẫn rất ít đề cập đến các vấn đề quan trọng này.
Logistics Việt Nam tuy có phát triển thuận lợi nhưng chưa khai thác hết được lợi thế địa - kinh tế và tương xứng với tiềm năng của mỗi địa phương; cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động logistics cũng như sự kết nối giữa hạ tầng thương mại, hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghệ thông tin,... cả trong nước và với khu vực còn chưa cao nên hiệu quả hoạt động logistics còn nhiều tồn tại, bất cập.
Trong khi đó, các doanh nghiệp logistics ở nước ta hiện chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh còn phân tán, chủ yếu tập trung ở thị trường nội địa, nguồn nhân lực logistics thiếu và chưa được đào tạo hệ thống...
Những bất cập, tồn tại trên là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như: Nhận thức về bản chất kinh tế, vai trò và sứ mệnh của logistics trong nền kinh tế còn nhiều bất cập và chưa đầy đủ; việc định hướng, hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động logistics còn hạn chế; mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta chuyển đổi chậm, vẫn dựa vào tài nguyên và lao động trình độ thấp nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho ngành logistics phát triển; tiềm lực của các doanh nghiệp logistics, nhất là doanh nghiệp tư nhân trong nước vẫn còn hạn chế, trong khi khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm hơn 82% tổng số lao động trong nền kinh tế, đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội.


Logistics Việt Nam tuy có phát triển thuận lợi nhưng chưa khai thác hết được lợi thế địa - kinh tế và tương xứng với tiềm năng của mỗi địa phương. (Ảnh minh họa)
Để nắm bắt và tận dụng hiệu quả những cơ hội, phát huy các tiềm năng, thế mạnh, khắc phục những mặt bất cập, tồn tại nhằm thúc đẩy ngành logistics phát triển mạnh mẽ, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế nhanh và bền vững, đồng thời tạo cơ hội cho phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cả trước mắt và lâu dài. Trong phạm vi bài viết này, xin nhấn mạnh một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức về bản chất kinh tế, vai trò và sứ mệnh của logistics trong nền kinh tế. Mặc dù logistics đóng vai trò hết sức quan trọng giúp đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu hợp lý nền kinh tế vì đây là ngành “dịch vụ cơ sở hạ tầng” của cả nền kinh tế nhưng có thể nói, ngành logistics của ta vẫn còn chậm phát triển, hiểu biết về lĩnh vực này của nhiều cán bộ và người dân vẫn còn hạn chế. Việc tổ chức các chương trình khoa giáo về logistics phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng còn hạn chế, hầu như chưa sử dụng các phương tiện truyền thông nhằm quảng bá rộng rãi về vai trò, tầm quan trọng của logistics, doanh nghiệp dịch vụ logistics… theo Quyết định 200/QĐ-TTg ngày 17/2/2017 và Quyết định 221/QĐ-TTg, ngày 22/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định 200. Việc nâng cao nhận thức về logistics của đội ngũ cán bộ quản lý các ngành, các cấp ở trung ương và địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành logistics phát triển, đặc biệt là các loại hình doanh nghiệp tư nhân logistics, để tránh tình trạng đáng tiếc như hiện nay vẫn còn một bộ phận cán bộ nghiên cứu, cán bộ thanh tra, kiểm toán, cán bộ quản lý các cấp… vẫn còn coi “dự trữ quốc gia, tài chính và hải quan” nằm ngoài câu chuyện logistics.
Thứ hai, cần có quan điểm, định hướng, mục tiêu, giải pháp đột phá về phát triển logistics, bao gồm các giải pháp từ hoàn thiện, bổ sung chính sách, pháp luật logistics; đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng logistics - KCN logistics, trung tâm logistics, luật hóa bất động sản logistics (khu công nghiệp logistics, trung tâm logistics).
Việc luật hóa bất động sản logistics và có các chính sách phát triển phù hợp chính là tạo môi trường kinh doanh logistics thuận lợi; đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân logistics trong nước có cơ hội để mở rộng đầu tư kinh doanh và mở rộng thị trường trong lĩnh vực logistics, liên kết chặt chẽ hơn với các nhà sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đóng góp nhiều hơn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước tại các địa phương. Logistics cần thực sự lan tỏa cùng các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng phát triển vươn lên, xây dựng các thương hiệu Việt lớn, đầu đàn trên thị trường; từ đó phát triển hệ thống các loại hình doanh nghiệp logistics có sức cạnh tranh cao; mở rộng thị trường logistics, thị trường bất động sản logistics và phát triển nguồn nhân lực logistics, nguồn nhân lực số ở nước ta giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Mặt khác, logistics là loại hình dịch vụ tổng hợp, mang tính liên ngành và cần ứng dụng triệt để công nghệ thông tin; việc quản lý dịch vụ logistics còn đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành như giao thông vận tải, kế hoạch và đầu tư, thương mại, hải quan, công nghệ thông tin… Do đó, để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý cũng như sự nhất quán giữa các quy định pháp luật về logistics, cần thành lập Ủy ban logistics quốc gia như một Bộ hiệu quả với các thành viên từ các bộ: Công Thương, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Môi trường… hướng tới xây dựng Luật Logistics.
Theo Nghị định số 96/2022/NĐ-CP ngày 29/11/2022, Bộ Công Thương là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về dịch vụ logistics, có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics; điều phối hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội phát triển dịch vụ logistics. Quy định này cần sớm được cụ thể hóa và thực hiện trong cuộc sống, bởi đến nay, bộ phận chuyên trách về logistics tại Bộ Công Thương chưa được thành lập nên công tác điều phối và phát triển logistics quốc gia còn hạn chế.
Thứ ba, cần điều chỉnh và bổ sung Nghị định 163/2017 NĐ-CP ngày 30/12/2017 Quy định về kinh doanh dịch vụ logistics và Quyết định số 27/QĐ-TTg ngày 6/7/2018 về Ban hành hệ thống ngành kinh tế Việt Nam để thống nhất việc xác định các hoạt động kinh tế thuộc lĩnh vực logistics.
Thứ tư, cần tích hợp các quy hoạch phát triển các trung tâm logistics và hệ thống cảng cạn hiện nay ở nước ta để phù hợp hơn với thực tế logistics, đồng thời tránh lãng phí trong đầu tư phát triển. Sự thiếu đồng bộ giữa quy hoạch giao thông vận tải và logistics sẽ làm giảm khả năng giải quyết tình trạng ùn tắc tại các cảng biển quốc tế và gây khó khăn cho việc phát triển vận tải đa phương thức trong tương lai.
Thứ năm, hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu tiên cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics. Ưu tiên xây dựng hạ tầng kết nối mạng lưới giao thông vận tải theo hướng vận tải đa phương thức để khai thác hiệu quả hệ thống cơ sở hạ tầng logistics hiện có. Đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng các bất động sản logistics, KCN logistics, KCN logistics công nghệ cao, trung tâm logistics, hệ thống kho hàng theo hướng hiện đại để kết nối các phương thức vận tải, hiện thực hóa liên kết kinh tế, thúc đẩy sản xuất và gia tăng giá trị cho các sản phẩm của các địa phương và doanh nghiệp. Điều này một mặt nhằm tạo cơ hội cho phát triển các doanh nghiệp tư nhân, mặt khác giảm áp lực quá tải lên đường bộ, đường không, giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, đặc biệt là để giảm chi phí logistics cho các doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay.
Nâng cao giá trị của các doanh nghiệp Việt trong chuỗi logistics, giúp các doanh nghiệp Việt từng bước lớn mạnh, vươn lên làm chủ thị trường là vấn đề có tính cấp bách hiện nay.
Các trung tâm logistics cần được hiểu là một bộ phận thuộc cơ sở hạ tầng logistics, là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được quy hoạch, xây dựng tại những địa điểm có khả năng kết nối với các phương tiện vận tải khác nhau như đường ô tô, đường sắt, đường biển, đường sông, đường hàng không… nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics, trong đó tập trung các loại hình doanh nghiệp logistics, các cơ sở kinh doanh logistics của các chủ thể khác nhau thuộc nhiều thành phần kinh tế. Các chủ thể này có thể là người chủ sở hữu hoặc là người thuê sử dụng các cơ sở vật chất và trang thiết bị của trung tâm logistics như kho bãi, văn phòng, khu vực xếp dỡ hàng…
Việc tập trung kinh doanh logistics vào các khu công nghiệp logistics, trung tâm logistics, “làng logistics” sẽ giúp các doanh nghiệp logistics Việt Nam có điều kiện kết nối làm ăn với các doanh nghiệp logistics nước ngoài, từ đó vươn ra thị trường ngoài nước, phấn đấu vươn lên thành các doanh nghiệp logistics đầu đàn, có như vậy mới có thể chiếm lĩnh được thị trường logistics Việt Nam.
Thứ sáu, đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành logistics Việt Nam. Nguồn nhân lực logistics cho các ngành, địa phương và các doanh nghiệp đang yếu cả về số lượng và chất lượng nhưng lại chưa được quan tâm đầu tư đúng mức cho đào tạo phát triển. Đây là yếu tố quan trọng để phát huy vai trò ngành logistics Việt Nam trong bối cảnh mới. Để đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics, cần sớm có mã ngành đào tạo mới độc lập về logistics. Hiện nay đào tạo logistics đang bị ghép cơ học trong ngành Quản lý công nghiệp (từ tháng 10/2017) là không hợp lý và không phù hợp trong bối cảnh hiện nay khi mà các Quyết định 200/QĐ-TTg, Quyết định 221/QĐ-TTg và Quyết định 531/QĐ-TTg xác định logistics là một trong 4 ngành dịch vụ ưu tiên phát triển từ nay đến năm 2050.
Thứ bảy, đẩy mạnh tổ chức các chương trình khoa giáo về logistics, phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng, sử dụng các phương tiện truyền thông nhằm quảng bá rộng rãi vai trò, tầm quan trọng của logistics và doanh nghiệp dịch vụ logistics… theo Quyết định 200/QĐ-TTg ngày 17/2/2017 và Quyết định 221/QĐ-TTg, ngày 22/02/2021 đã đề ra. Bởi vì sự hiểu biết về bản chất kinh tế và sứ mệnh của logistics của nhiều cán bộ quản lý, các doanh nghiệp và người dân vẫn còn hạn chế…
Nâng cao giá trị của các doanh nghiệp Việt trong chuỗi logistics, giúp các doanh nghiệp Việt từng bước lớn mạnh, vươn lên làm chủ thị trường là vấn đề có tính cấp bách hiện nay. Nhất là khi, các doanh nghiệp tư nhân logistics hiện đang chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, chiếm tỷ trọng lên đến trên 96%. Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực logistics phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô và chất lượng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 27-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 25/12/2023 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
2. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
3. Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 221/QĐ-TTg, ngày 22/02/2021 về sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.
4. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 1012/QĐ-TTg, ngày 03/7/2015 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
5. GS.TS Đặng Đình Đào, PGS.TS Trần Văn Hòa, PGS.TS Trương Tấn Quân (2021). Thương mại và logistics Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986-2021, triển vọng đến năm 2045. Nxb. Lao động.
6. GS.TS Đặng Đình Đào, PGS.TS Trương Tấn Quân và Cộng sự (2025). "Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế". Nxb. Lao động.
7. Nghị quyết số 163/2022/NQ-CP ngày 16/12/2022 Về việc đẩy mạnh triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam.
8. Thủ tướng Chính phủ (2021); Quyết định 531/QĐ-TTg ngày 01/04/2021 Phê duyệt Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
9. Thủ tướng Chính phủ (2023); Quyết định 979/QĐ-TTg ngày 22/09/2023, Phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.
Năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.
Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.
Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đã và đang có thể tiếp tục nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.
Trân trọng giới thiệu tới độc giả!