TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”

Nguyễn Thành Công
Nguyễn Thành Công Congnguyenthanhyb@gmail.com
Thứ Hai, 13/10/2025 - 09:00

Hôm nay, tròn 80 năm kể từ ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới giới công thương, khẳng định một tư tưởng phát triển chiến lược:

"Chính phủ, Nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới thương nhân trong công cuộc kiến thiết này. Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà doanh nghiệp thịnh vượng".

80 năm đã trôi qua, tư tưởng ấy vẫn vẹn nguyên giá trị như một tuyên ngôn về vai trò tiên phong của đội ngũ doanh nhân dân tộc, những người không chỉ làm giàu cho bản thân, mà còn gánh trên vai khát vọng phồn vinh của đất nước. Trong bối cảnh Việt Nam đứng trước một bước ngoặt lịch sử, khi tinh thần dân tộc, cải cách thể chế và năng lượng doanh nhân cần hội tụ để tạo nên sức bật phát triển mới, việc nhìn lại và khơi dậy "tinh thần Diên Hồng thời kinh tế" càng trở nên có ý nghĩa đặc biệt.

Trong cuộc trò chuyện chuyên sâu này, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, một trong những trí thức hàng đầu của Việt Nam về khoa học thể chế và chính sách phát triển, hiện là Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, đã chia sẻ những luận điểm sắc sảo và có chiều sâu hiếm thấy. Ông nói về tái sinh tinh thần Diên Hồng trong thời bình, về thời vận cải cách, về vai trò tiên phong của doanh nhân dân tộc và về cuộc "Đổi mới 2.0" mà Việt Nam phải thực hiện nếu muốn bứt phá, vươn mình thành quốc gia phát triển.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng nói với tôi rằng: "Đây là lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần cuối cùng tôi dành nhiều thời gian và trí lực cho một cuộc phỏng vấn dài như thế này".

Trong ánh mắt và giọng nói của ông, tôi cảm nhận được một niềm tin lớn lao dành cho đội ngũ doanh nhân Việt Nam, những người mà ông gọi là "ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng".

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 1.

- Khi quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai, Vua Trần Nhân Tông đã mở Hội nghị Diên Hồng để hỏi ý kiến bô lão cả nước về chủ trương "hòa hay chiến" vào tháng Chạp năm Giáp Thân (1284). Các bô lão đồng thanh hô "Đánh", thể hiện tinh thần đại đoàn kết của dân tộc và hào khí non sông khi đối diện ngoại xâm. Ngày nay, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng hiệu triệu "muôn triệu người như một, đoàn kết chung tay" để xây dựng Việt Nam "giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc". Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, làm sao để tinh thần Diên Hồng - biểu tượng của ý chí đồng lòng, được tái sinh mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới, khi thách thức chủ yếu là phát triển kinh tế?

Làm sao để trong tim mỗi người dân, mỗi doanh nhân hôm nay, vẫn vang lên tiếng "Đánh!" - không còn là đánh giặc, mà là đánh tan trì trệ, đánh thức khát vọng vươn mình của dân tộc?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tinh thần Diên Hồng là biểu tượng vĩ đại nhất của ý chí đồng lòng và năng lượng tinh thần dân tộc Việt Nam. Năm 1284, khi đất nước lâm nguy, tiếng hô "Đánh!" không chỉ là quyết tâm ra trận mà là sự thức tỉnh của một dân tộc, ý thức rằng vận mệnh quốc gia không của riêng ai. Hôm nay, khi Tổ quốc không còn đối diện với giặc ngoại xâm mà đối diện với thách thức phát triển, tiếng "Đánh!" ấy cần được tái sinh trong một hình hài mới: "Đánh tan trì trệ, đánh thức khát vọng, đánh thắng chính mình".

Muốn khơi dậy tinh thần Diên Hồng trong thời bình, điều cốt lõi là phải chuyển hóa lòng yêu nước thành năng lực kiến tạo. Nếu ngày xưa ta "cứu nước bằng máu", thì hôm nay phải "làm giàu cho nước bằng trí tuệ và sáng tạo". Mỗi doanh nhân, mỗi người lao động, mỗi nhà khoa học, mỗi cán bộ công quyền đều đang ở "mặt trận" của riêng mình. Mỗi quyết định đúng, mỗi sản phẩm tốt, mỗi chính sách công minh đều là một chiến công trên "mặt trận phát triển".

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 2.

Tinh thần Diên Hồng mới không thể chỉ dừng ở khẩu hiệu. Nó cần được thể chế hóa thành niềm tin, cơ chế và hành động.

Niềm tin rằng dân tộc Việt Nam có đủ bản lĩnh để bước vào kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo và kinh tế xanh.

Cơ chế để mọi người dân, mọi doanh nghiệp đều có cơ hội đóng góp, cống hiến, làm giàu chính đáng.

Hành động của mỗi cấp lãnh đạo cần biết khơi dậy chứ không áp đặt; biết tạo động lực chứ không gây rào cản.

Và đặc biệt, tinh thần Diên Hồng hôm nay phải bắt đầu từ doanh nhân Việt Nam, những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận kinh tế. Khi một doanh nhân dám đầu tư cho đổi mới sáng tạo, dám vượt qua rủi ro để tạo giá trị cho đất nước, thì đó chính là một tiếng "Đánh!" vang lên giữa thời bình.

Tiếng "Đánh!" hôm nay không phát ra từ chiến địa, mà từ phòng họp, nhà máy, phòng nghiên cứu, sàn thương mại điện tử, sân bay quốc tế...

Đó là tiếng "Đánh!" của khát vọng vươn mình, của lòng tự tôn dân tộc, của niềm tin rằng: "Người Việt Nam không chỉ anh hùng trong chiến tranh, mà còn có thể vĩ đại trong hòa bình".

Chỉ khi mỗi công dân cảm thấy mình là một phần trong công cuộc dựng xây đất nước, khi mỗi doanh nghiệp mang trong tim sứ mệnh "vì một Việt Nam thịnh vượng", thì tinh thần Diên Hồng sẽ tái sinh, không phải trong tiếng trống trận, mà trong nhịp đập con tim của cả dân tộc cùng hướng về tương lai.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 3.

- Nhìn lại triều Nguyễn nửa sau thế kỷ XIX, đất nước đã bỏ lỡ cơ hội canh tân khi đa số quan lại bảo thủ không tiếp thu các đề xuất cải cách của những sĩ phu tiến bộ như Nguyễn Trường Tộ - nhân vật lạ và hiếm của lịch sử Việt Nam. Hệ quả là Đại Nam trì trệ, lạc hậu và rơi vào ách thuộc địa, trong khi Nhật Bản cùng thời, với cuộc Minh Trị Duy Tân đã vươn lên thành quốc gia hiện đại, hùng cường. Rút kinh nghiệm lịch sử đó, theo ông, đâu là những "thời vận" quan trọng mà Việt Nam nhất định phải nắm bắt khi bước vào kỷ nguyên mới đầy biến động, nhất là khi Tổng Bí thư Tô Lâm đã hiệu triệu tinh thần đổi mới, khơi dậy khát vọng dân tộc và đưa ra những quyết sách mạnh mẽ để đưa Việt Nam tiến vào kỷ nguyên phát triển mới?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Lịch sử luôn ban cho mỗi dân tộc những "cửa sổ thời vận", mở ra rồi khép lại rất nhanh.

Giữa thế kỷ XIX, chúng ta đã đứng trước một cơ hội canh tân lớn. Nhưng thay vì đổi mới, ta chọn cách thủ cựu; thay vì mở cửa, ta khép lòng; thay vì đối diện với thay đổi, ta sợ hãi nó. Và chỉ một thế hệ sau, cơ hội ấy đã hóa thành bi kịch. Trong khi đó, người Nhật, với tinh thần Minh Trị, đã "thay đổi để tồn tại, cải cách để vươn lên", từ một quốc gia phong kiến trở thành cường quốc công nghiệp.

Hôm nay, Việt Nam lại đứng trước một "Minh Trị Duy Tân" của riêng mình. Đó là cuộc cách mạng kép - cách mạng thể chế và cách mạng công nghệ. Tổng Bí thư Tô Lâm đã hiệu triệu tinh thần đổi mới, không chỉ như một chính sách, mà như một "lý tưởng quốc gia mới", nơi mọi người Việt đều được khơi dậy khát vọng vươn mình, đóng góp vào sự hùng cường của Tổ quốc.

Tôi cho rằng, có ba "thời vận" mà nếu nắm bắt được, dân tộc ta có thể chuyển mình từ "đang phát triển" sang "phát triển thực sự":

Thứ nhất, thời vận của trí tuệ. Trí tuệ đang trở thành nguồn lực cạnh tranh tối thượng. Trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo, quốc gia nào biết giải phóng sức sáng tạo, nuôi dưỡng tài năng và bảo vệ người đổi mới, quốc gia ấy sẽ thắng. Muốn thế, phải cải cách giáo dục, trọng dụng nhân tài và tạo môi trường khuyến khích "sai lầm sáng tạo", thay vì trừng phạt nó.

Thứ hai, thời vận của thể chế. Thể chế chính là "đường ray" cho con tàu phát triển. Một hệ thống thể chế năng động, minh bạch, khuyến khích cống hiến và bảo vệ cái đúng, là nền tảng của mọi cuộc cất cánh. Chúng ta đang có cơ hội hiếm có để "tái thiết kế hệ điều hành quốc gia", chuyển từ quản lý sang phục vụ, từ xin - cho sang trao quyền, từ sợ trách nhiệm sang dám chịu trách nhiệm.

Thứ ba, thời vận của doanh nghiệp dân tộc. Không ai khác, doanh nhân Việt Nam là đội quân tiên phong của công cuộc canh tân. Nếu thế kỷ XX là thời của người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, thì thế kỷ XXI là thời của doanh nhân cầm trí tuệ, cầm công nghệ và khát vọng để kiến tạo phồn vinh. Khi doanh nghiệp dân tộc mạnh lên, đất nước mới có nền kinh tế độc lập thực chất.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 4.

- Làm sao để đội ngũ lãnh đạo và doanh nhân đồng tâm hiệp lực, thực hiện những cải cách táo bạo cần thiết, để vận nước không còn lỡ nhịp mà chuyển mình đúng vào khúc ngoặt lịch sử, nơi dân tộc hoặc bứt phá, hoặc tụt lại?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Để không lỡ nhịp thời vận, điều cần nhất là sự đồng tâm hiệp lực giữa người lãnh đạo và doanh nhân.

Lãnh đạo phải có tầm nhìn cải cách và dũng khí chính trị, dám mở đường, dám chịu trách nhiệm. Doanh nhân phải có khí phách dân tộc và tinh thần phụng sự, dám đầu tư, dám dấn thân và coi thành công của mình là thành công của đất nước. Cả hai cùng chia sẻ một "mẫu số chung": Khát vọng Việt Nam thịnh vượng.

Chúng ta không còn đánh giặc bằng gươm súng, mà đang "đánh trận phát triển", trận chiến đòi hỏi trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần cải cách không ngừng. Nếu chúng ta nắm bắt đúng "thời vận" này, biết đoàn kết như một "Diên Hồng mới của thời kinh tế", thì Việt Nam sẽ không chỉ trỗi dậy, mà còn tỏa sáng, trở thành hình mẫu của một quốc gia Á Đông hùng cường trong kỷ nguyên hội nhập.

- Ngay từ những ngày đầu lập quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là sự kinh doanh của các nhà công thương nghiệp thịnh vượng", cho thấy tầm quan trọng của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp kiến quốc. Trong các cuộc kháng chiến, toàn dân ta chung một ý chí "không có gì quý hơn độc lập tự do"; còn ngày nay, trên mặt trận phát triển, Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trương "xây dựng đội ngũ doanh nhân thật sự trở thành "chiến sĩ" trên mặt trận kinh tế, tham gia thực chất trong hoạch định chính sách. Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia phản biện chính sách, đóng góp vào quá trình hoạch định và thực thi chiến lược phát triển". Ông có suy nghĩ gì về bước chuyển lịch sử, từ hào khí đấu tranh giành độc lập sang hào khí khởi nghiệp, kiến quốc trong thời bình của doanh nhân Việt Nam? Phải chăng, trong thời đại mới, yêu nước không chỉ là chiến đấu, mà còn là kiến tạo, biến lòng yêu nước thành năng lực phát triển?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Đúng vậy, thưa anh. Mỗi thời đại đều có một hình thức biểu hiện riêng của lòng yêu nước. Nếu trong thế kỷ XX, lòng yêu nước được thể hiện bằng sự hy sinh để giành độc lập, thì trong thế kỷ XXI, lòng yêu nước được thể hiện bằng sự dấn thân để kiến tạo phồn vinh. Hào khí chiến đấu của cha ông đang được tiếp nối bằng hào khí khởi nghiệp, hào khí kiến quốc, nơi doanh nhân chính là những "chiến sĩ" trên mặt trận phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn xa hơn thời đại của Người. Khi Người nói: "Kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là sự kinh doanh của các nhà công thương nghiệp thịnh vượng", đó là một quan niệm kinh tế hiện đại, thể hiện tư duy hòa quyện giữa độc lập dân tộc và tự cường kinh tế.

Ngày nay, Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp nối tinh thần ấy khi khẳng định, doanh nhân không chỉ làm kinh tế, mà còn góp phần hoạch định chính sách, phản biện chiến lược và đồng hành cùng Đảng - Nhà nước trong kiến tạo con đường phát triển quốc gia.

Đó là bước chuyển lịch sử, từ "đấu tranh sinh tồn" sang "đấu tranh phát triển". Từ "chiến trường khói lửa" sang "chiến trường kinh tế tri thức". Từ "người lính cầm súng" sang "doanh nhân cầm trí tuệ, công nghệ và khát vọng".

Trong thời đại mới, yêu nước không chỉ là chiến đấu, mà là kiến tạo.

Là biến tình yêu Tổ quốc thành năng lực cạnh tranh, thành sản phẩm Việt Nam mang thương hiệu toàn cầu, thành những sáng kiến giúp đất nước bứt phá. Một doanh nhân yêu nước hôm nay là người biết chọn ở lại thay vì bỏ đi, biết đầu tư vào Việt Nam thay vì chuyển tài sản ra nước ngoài, biết bảo vệ danh dự dân tộc bằng uy tín doanh nghiệp và chất lượng sản phẩm.

Chúng ta đang chứng kiến sự xuất hiện của một thế hệ doanh nhân dân tộc mới, không chỉ làm giàu cho mình, mà còn làm giàu cho đất nước; không chỉ tìm lợi nhuận, mà còn tìm ý nghĩa; không chỉ tạo sản phẩm, mà còn tạo niềm tự hào Việt Nam.

Và khi Tổng Bí thư Tô Lâm nói về "doanh nhân là chiến sĩ trên mặt trận kinh tế", đó không chỉ là một ẩn dụ, đó là một lời hiệu triệu. Hiệu triệu mỗi doanh nhân hãy khoác lên mình áo giáp của trí tuệ, đạo đức và tinh thần phụng sự. Hiệu triệu đội ngũ lãnh đạo hãy mở đường cho sáng tạo, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Khi hai lực lượng ấy, người lãnh đạo và doanh nhân, cùng chung một khát vọng, thì Việt Nam sẽ tạo nên một "Minh Trị Duy Tân" của riêng mình trong thế kỷ XXI. Đó chính là lúc lòng yêu nước được chuyển hóa thành năng lực phát triển, và ý chí độc lập dân tộc trở thành sức mạnh cạnh tranh quốc gia.

Khi Tổng Bí thư Tô Lâm nói về "doanh nhân là chiến sĩ trên mặt trận kinh tế", đó không chỉ là một ẩn dụ, đó là một lời hiệu triệu. Hiệu triệu mỗi doanh nhân hãy khoác lên mình áo giáp của trí tuệ, đạo đức và tinh thần phụng sự. Hiệu triệu đội ngũ lãnh đạo hãy mở đường cho sáng tạo, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 5.TS. Nguyễn Sĩ Dũng
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 6.

- Tôi đọc được một quan điểm "khác người" của nhà kinh tế học Joseph Schumpeter: Bản chất của phát triển kinh tế nằm ở quá trình "phá hủy sáng tạo" do các doanh nhân thúc đẩy. Việt Nam đang khát vọng vươn mình, ông đánh giá như thế nào về tinh thần doanh nhân đổi mới sáng tạo trong hành trình kiến tạo sự thịnh vượng của quốc gia? Liệu các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có đủ động lực và năng lực để tạo ra những "kết hợp mới" đột phá, làm xoay chuyển cục diện nền kinh tế hiện tại?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Schumpeter đã nói một điều bất hủ: "Phát triển kinh tế không phải là đi theo quỹ đạo cũ, mà là phá vỡ nó để mở ra con đường mới". Cốt lõi của tăng trưởng không phải là tích lũy, mà là sáng tạo. Không phải là sự lặp lại, mà là sự "phá hủy sáng tạo", nơi cái cũ được thay thế bằng cái mới, yếu tố bảo thủ nhường chỗ cho đổi mới, và sự an toàn nhường chỗ cho dấn thân.

Nếu nhìn bằng lăng kính ấy, có thể nói rằng, Việt Nam đang đứng trước "khoảnh khắc Schumpeter" của riêng mình. Sau 40 năm Đổi mới, chúng ta đã bước ra khỏi đói nghèo; giờ đây, thử thách mới không còn là "tồn tại" mà là "vươn tầm". Và sự vươn tầm ấy chỉ có thể được dẫn dắt bởi một đội ngũ doanh nhân dám phá khuôn, dám sáng tạo, dám bước ra khỏi vùng an toàn.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 7.

Điều đáng mừng là tinh thần đổi mới sáng tạo đang âm thầm lan tỏa trong khu vực tư nhân Việt Nam:

Nhiều tập đoàn đã chuyển từ mô hình thương mại - bất động sản sang công nghệ và sản xuất công nghiệp tiên tiến: Vingroup với VinFast và AI; FPT, CMC với chiến lược "Make in Vietnam"; TH với nông nghiệp công nghệ cao và ESG; Masan với hệ sinh thái tiêu dùng - bán lẻ kết hợp dữ liệu số... Những doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang bắt đầu cuộc cách mạng vi mô của riêng họ: Sản xuất xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử xuyên biên giới. Và hơn hết, tinh thần doanh nhân Việt Nam đang tiến hóa, từ "làm giàu cho mình" sang "làm giàu cho quốc gia".

Tuy nhiên, để "phá hủy sáng tạo" thực sự trở thành động cơ phát triển quốc gia, Việt Nam cần hai điều kiện nền tảng:

Thứ nhất, một môi trường thể chế khuyến khích đổi mới. Sáng tạo không thể nảy mầm trong môi trường sợ sai. Nếu doanh nhân dám làm mà luôn đối diện rủi ro pháp lý, thì sáng tạo sẽ bị bóp nghẹt bởi tâm lý phòng thủ. Do đó, chúng ta cần những "vùng an toàn thể chế", các sandbox để thử nghiệm chính sách và mô hình kinh doanh mới, nơi đổi mới được bảo vệ như một giá trị quốc gia.

Thứ hai, một hệ sinh thái tri thức và vốn con người năng động. Đổi mới sáng tạo không chỉ đến từ doanh nghiệp, mà còn từ mối liên kết "tam giác" giữa Nhà nước - doanh nghiệp - trường đại học. Khi chính sách khuyến khích, doanh nghiệp dấn thân và đại học cung cấp tri thức cùng nhân lực, thì "phá hủy sáng tạo" sẽ trở thành động lực lan tỏa toàn xã hội.

Câu hỏi đặt ra là: Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã đủ động lực và năng lực chưa? Câu trả lời của tôi là: Đủ khát vọng, đang tích lũy năng lực và rất cần được tiếp sức. Họ có tinh thần dám làm, có năng lượng trẻ, có khả năng thích ứng nhanh, điều mà các nền kinh tế phát triển nhiều khi đã đánh mất. Nhưng họ còn thiếu hậu thuẫn về thể chế, tài chính và tri thức, để biến khát vọng thành sức mạnh cạnh tranh toàn cầu.

Schumpeter từng nói: "Doanh nhân là người làm những điều mà người khác chỉ nghĩ". Và tôi tin rằng, người Việt Nam hôm nay đang nghĩ và dám làm. Nếu Đảng và Nhà nước tạo được "không gian tự do cho sáng tạo, hành lang an toàn cho đổi mới", thì đội ngũ doanh nhân Việt Nam hoàn toàn có thể làm xoay chuyển cục diện nền kinh tế, mở ra thời kỳ tăng trưởng dựa trên sáng tạo, chứ không chỉ trên tài nguyên hay nhân công rẻ.

Đó chính là bản chất của "Đổi mới 2.0" mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã khơi dậy: Không chỉ là đổi mới chính sách, mà là đổi mới tư duy phát triển.

Không chỉ là tạo ra tăng trưởng, mà là tạo ra giá trị và bản sắc Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Khi mỗi doanh nhân trở thành "Schumpeter Việt Nam", dám phá cái cũ để tạo cái mới, thì sức mạnh dân tộc sẽ được giải phóng và từ đó, khát vọng "Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc" sẽ không còn là ước mơ, mà trở thành hiện thực.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 8.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

- Tôi đồng ý với ông. Nhưng còn một góc nhìn khác cũng rất đáng được suy ngẫm: Nhà kinh tế Amartya Sen, tác giả của "lương tâm của kinh tế học" cho rằng, phát triển nên được đo bằng sự mở rộng các quyền tự do và năng lực thực chất của con người, thay vì chỉ dựa trên tăng trưởng thu nhập. Theo ông, đội ngũ doanh nhân Việt Nam có thể đóng góp gì trong việc nâng cao các quyền tự do kinh tế - xã hội? Làm sao để khu vực tư nhân vừa thúc đẩy tăng trưởng GDP, vừa bảo đảm tiến bộ xã hội, thực hiện mục tiêu phát triển bao trùm hướng tới sự thịnh vượng chung?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Amartya Sen đã từng viết: "Phát triển là quá trình mở rộng các quyền tự do thực chất mà con người được hưởng". Câu nói ấy đã thay đổi cách nhân loại hiểu về phát triển: Từ chỗ coi tăng trưởng GDP là cứu cánh, chuyển sang coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Một xã hội thịnh vượng không phải là xã hội có nhiều của cải, mà là xã hội nơi mọi người dân đều có cơ hội sống một cuộc đời họ có lý do để trân trọng.

Nếu nhìn bằng tư tưởng ấy, doanh nghiệp không chỉ là động cơ kinh tế, mà còn là người mở rộng tự do xã hội. Khi doanh nghiệp tạo ra việc làm, họ đang mở rộng tự do lựa chọn nghề nghiệp. Khi họ đầu tư vào đào tạo, họ đang mở rộng tự do học tập và nâng cao năng lực. Khi họ bảo đảm an toàn lao động, chăm sóc sức khỏe, xây dựng môi trường làm việc văn minh, họ đang mở rộng tự do nhân phẩm. Và khi doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, họ đang góp phần giải phóng con người khỏi đói nghèo, bất bình đẳng và lệ thuộc.

Thứ nhất, doanh nhân góp phần mở rộng quyền tự do kinh tế. Một nền kinh tế năng động là nền kinh tế nơi mỗi cá nhân có thể tự do khởi nghiệp, sáng tạo và lựa chọn hướng đi của mình. Khi doanh nghiệp Việt Nam đầu tư mạnh mẽ vào sản xuất, dịch vụ và công nghệ, họ không chỉ tạo ra tăng trưởng GDP, mà còn tạo ra nền tảng sinh kế tự chủ cho hàng chục triệu người dân. Tự do kinh tế, tức là khả năng làm việc, kiếm sống, sáng tạo và vươn lên bằng năng lực của chính mình, chính là hình thức tự do căn bản nhất.

Thứ hai, doanh nhân mở rộng quyền tự do xã hội. Doanh nghiệp tư nhân có thể và nên đóng vai trò đối tác của Nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ công thiết yếu như giáo dục, y tế, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm và phúc lợi. Những mô hình hợp tác công - tư (PPP) về giáo dục nghề nghiệp, bệnh viện tư chất lượng cao, hay quỹ học bổng, quỹ phúc lợi xã hội… đều là cách doanh nghiệp đầu tư trở lại vào con người. Đó chính là phát triển bao trùm, khi tăng trưởng kinh tế đi cùng mở rộng cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.

Thứ ba, doanh nhân mở rộng quyền tự do phát triển bản thân. Trong kỷ nguyên số, khi doanh nghiệp ứng dụng công nghệ để giảm lao động nặng nhọc, thúc đẩy học tập suốt đời, tạo ra các không gian sáng tạo, họ đang giải phóng con người khỏi công việc rập khuôn và mở ra tự do sáng tạo. Một xã hội sáng tạo là xã hội nơi con người không chỉ "kiếm sống", mà còn "sống có ý nghĩa".

Thứ tư, doanh nhân góp phần củng cố tự do cộng đồng - tự do được sống trong một xã hội công bằng, xanh và nhân văn. Các doanh nghiệp tiên phong về ESG, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn không chỉ giảm phát thải, mà còn bảo vệ quyền được hít thở không khí sạch, quyền được sống trong môi trường an toàn, những quyền rất cụ thể nhưng trước đây ít được nhìn nhận như "tự do".

Tuy nhiên, để khu vực tư nhân có thể vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa bảo đảm tiến bộ xã hội, cần một triết lý phát triển mới, nơi lợi nhuận và lương tri không tách rời nhau. Nhà nước cần thiết kế thể chế khuyến khích doanh nghiệp làm điều đúng, tưởng thưởng cho sáng tạo xanh và bảo vệ người tiên phong. Doanh nghiệp cần chuyển từ tư duy "tối đa hóa lợi nhuận" sang "tối ưu hóa giá trị xã hội". Đó là cách để kinh tế thị trường mang gương mặt nhân văn, để "phát triển" không chỉ là con số, mà là nâng tầm con người Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã hiệu triệu: "Xây dựng đội ngũ doanh nhân thật sự trở thành chiến sĩ trên mặt trận kinh tế, đồng hành cùng dân tộc trong tiến trình đổi mới và phát triển bền vững". Khi doanh nghiệp hiểu rằng sứ mệnh của mình là mở rộng tự do và nâng cao phẩm giá con người, họ không chỉ góp phần vào GDP, mà đang viết tiếp giấc mơ Việt Nam thịnh vượng, hạnh phúc và nhân văn.

- Việt Nam đang tham gia sâu vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đồng thời cũng cần bảo vệ lợi ích chiến lược cho doanh nghiệp trong nước. Theo ông, chúng ta nên cân bằng như thế nào giữa yêu cầu hội nhập, mở cửa thị trường với nhu cầu bảo vệ và nuôi dưỡng những ngành công nghiệp "non trẻ" mang tính sống còn, như công nghiệp ô tô điện chẳng hạn, đối với sức mạnh kinh tế của dân tộc?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Câu hỏi này của anh chạm tới cốt lõi của tư duy phát triển trong thời đại toàn cầu hóa: Làm thế nào để một quốc gia vừa hội nhập sâu rộng, vừa giữ vững bản lĩnh và sức mạnh nội sinh. Nếu ví nền kinh tế như một cơ thể sống, thì hội nhập là quá trình hấp thụ dưỡng chất từ thế giới, còn tự cường là sức đề kháng bên trong. Một cơ thể khỏe mạnh phải có khả năng tiếp nhận cái mới mà không đánh mất bản thể của chính mình.

Trong lịch sử phát triển hiện đại, nhiều quốc gia từng mắc kẹt giữa hai cực đoan: Một bên là bảo hộ cứng nhắc, khép kín và sợ thay đổi, khiến nền kinh tế trì trệ. Bên kia là mở cửa tuyệt đối, để rồi các ngành công nghiệp non trẻ bị cuốn trôi trong làn sóng cạnh tranh toàn cầu. Con đường đúng đắn mà Việt Nam cần chọn là "hội nhập có bản lĩnh, mở cửa có chọn lọc, bảo hộ có thời hạn và mục tiêu rõ ràng".

Trước hết, hội nhập là để lớn lên, chứ không phải để bị hòa tan. Hội nhập không đồng nghĩa với việc từ bỏ lợi ích quốc gia, mà là đưa năng lực Việt Nam ra thế giới bằng sức cạnh tranh của chính mình. Tham gia các FTA thế hệ mới, Việt Nam cần chuyển từ tư duy "mở cửa thị trường" sang tư duy "định hình giá trị", thông qua tiêu chuẩn, công nghệ và chất lượng sản phẩm do mình làm chủ. Muốn vậy, chúng ta phải có một chiến lược công nghiệp hóa thông minh, xác định rõ những lĩnh vực mũi nhọn cần được ưu tiên đầu tư và bảo vệ trong giai đoạn đầu phát triển.

Tiếp theo, phải nuôi dưỡng những ngành công nghiệp "non trẻ" nhưng có ý nghĩa sống còn đối với năng lực tự cường quốc gia. Đó là ô tô điện, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, pin và bán dẫn - những trụ cột định hình sức mạnh kinh tế trong thế kỷ XXI. Các quốc gia từng thành công đều từng trải qua giai đoạn "ươm mầm" tương tự: Nhật Bản bảo hộ Toyota, Hàn Quốc bảo hộ Hyundai và Samsung, Singapore hỗ trợ các tập đoàn công nghệ quốc gia. Việt Nam cũng cần những chính sách bảo hộ có mục tiêu, minh bạch và có thời hạn, nhằm tạo không gian an toàn để doanh nghiệp Việt trưởng thành và đủ sức ra biển lớn.

Với ngành công nghiệp ô tô điện, đây không chỉ là một sản phẩm, mà là một biểu tượng của bản lĩnh dân tộc. Nó gắn liền với ba mục tiêu chiến lược: Giảm phát thải, hiện thực hóa cam kết Net-zero 2050; Hình thành chuỗi giá trị công nghiệp nội địa; Và quan trọng nhất, xây dựng thương hiệu Việt Nam toàn cầu. Để đạt được điều đó, nhà nước cần tạo "không gian tăng trưởng có kiểm soát": Ưu tiên doanh nghiệp trong nước trong đấu thầu, tín dụng xanh và chính sách thuế hợp lý, không để doanh nghiệp Việt bị gục ngã ngay trên sân nhà.

Tuy nhiên, bảo hộ không thể là tấm chăn êm để doanh nghiệp ngủ quên.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 9.

Phải chuyển từ "bảo hộ thụ động" sang "bảo hộ kiến tạo". Bảo hộ thụ động chỉ dựng rào thuế quan; bảo hộ kiến tạo dựng rào tri thức, công nghệ và năng lực nội sinh. Muốn vậy, chúng ta cần tập trung đầu tư cho nghiên cứu - phát triển (R&D), cho hạ tầng công nghiệp và cho mối liên kết ba nhà: Nhà nước - doanh nghiệp - đại học. Chính phủ có thể đặt hàng chiến lược: Xe điện, pin lưu trữ, vật liệu mới, hạ tầng xanh… để tạo thị trường trong nước và nuôi dưỡng năng lực sản xuất Việt Nam. Chỉ khi bảo hộ gắn với đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp mới lớn lên trong cạnh tranh chứ không phụ thuộc vào che chở.

Cân bằng giữa mở và giữ chính là nghệ thuật của lãnh đạo quốc gia trong thời hội nhập. Ta mở cửa để học hỏi, nhưng phải giữ những trụ cột chiến lược: Chủ quyền công nghệ, năng lực sản xuất cơ bản và thương hiệu Việt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu hội nhập mà chỉ để doanh nghiệp nội làm "nhà thầu phụ" cho tập đoàn nước ngoài, thì đó không phải là hội nhập, mà là lệ thuộc mới. Nhưng nếu hội nhập để hình thành những "người khổng lồ Việt Nam" như VinFast, TH, FPT, Masan… thì đó là hội nhập của chủ thể, chứ không phải của đối tượng.

Nói cách khác, hội nhập và tự cường không đối lập, chúng là hai cánh của cùng một con chim. Một cánh giúp Việt Nam bay cao cùng thế giới, cánh kia giữ cho ta thăng bằng và không lạc hướng. Nếu chính sách đúng, doanh nghiệp mạnh và tinh thần dân tộc được khơi dậy, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành hình mẫu của một nền kinh tế vừa hội nhập sâu, vừa bảo vệ vững chắc lợi ích chiến lược của mình.

Đó là con đường của một quốc gia bản lĩnh, hội nhập để vươn lên, chứ không hòa tan để tồn tại.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 10.

- Nghị quyết 68-NQ/TW nhấn mạnh phải "xóa bỏ triệt để" những nhận thức, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân, đồng thời tôn vinh doanh nhân là "chiến sĩ trên mặt trận kinh tế" và xây dựng niềm tin, quan hệ cởi mở giữa Nhà nước với doanh nghiệp. Theo ông, làm thế nào để thực sự đổi mới tư duy của cả hệ thống chính trị và xã hội về khu vực tư nhân - xem doanh nhân là lực lượng tiên phong đóng góp cho đất nước chứ không phải đối tượng bị nghi kỵ? Việc thay đổi thái độ và hành vi của đội ngũ công quyền (từ "quản lý, kiểm soát" sang "đồng hành, phục vụ") có ý nghĩa thế nào trong việc tạo môi trường cho kinh tế tư nhân phát triển đột phá?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Đây là một câu hỏi có tính nền tảng, không chỉ là chuyện kinh tế, mà là chuyện tư duy phát triển và văn hóa chính trị của cả một dân tộc. Bởi lẽ, thái độ của xã hội đối với doanh nhân chính là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển của quốc gia.

Trong suốt nhiều năm, chúng ta đã có những bước tiến quan trọng trong nhận thức: Từ chỗ "kinh tế tư nhân là thứ yếu", đến "là một động lực", và hôm nay, theo tinh thần Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị, "kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN".

Đó không chỉ là sự thay đổi về ngôn từ, mà là một cuộc cách mạng về tư duy.

Trước hết, phải đổi mới cách nhìn về doanh nhân. Doanh nhân không chỉ là "người kiếm lời", mà là người tạo ra của cải, việc làm và cơ hội cho xã hội. Họ không phải là "đối tượng được quản lý", mà là đối tác của Nhà nước trong kiến tạo phát triển. Trong kỷ nguyên mới, doanh nhân phải được nhìn nhận như "chiến sĩ trên mặt trận kinh tế", chiến đấu không bằng vũ khí, mà bằng trí tuệ, sáng tạo và tinh thần phụng sự Tổ quốc.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu rất rõ: "Xây dựng đội ngũ doanh nhân thật sự là lực lượng trung tâm thúc đẩy phát triển kinh tế, gắn bó với vận mệnh đất nước". Điều đó đòi hỏi toàn bộ hệ thống chính trị phải chuyển từ tâm thế "quản lý" sang tâm thế "trao niềm tin". Không thể có một khu vực tư nhân lớn mạnh nếu niềm tin của doanh nhân luôn bị nghi ngờ, còn tinh thần dấn thân luôn bị giám sát như một rủi ro.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 11.

Thứ hai, phải đổi mới hành vi của đội ngũ công quyền, từ "kiểm soát" sang "đồng hành". Đây là thước đo thực chất của cải cách thể chế. Một cán bộ công quyền hôm nay không còn là "người nắm quyền sinh sát" trong cấp phép, kiểm tra hay thanh tra, mà phải là người kiến tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Khi một công chức biết lắng nghe doanh nhân, hiểu khó khăn của doanh nghiệp và sẵn sàng gỡ vướng cho họ trong khuôn khổ pháp luật thì chính lúc đó, năng lực phục vụ của Nhà nước được khẳng định, còn lòng tin xã hội được củng cố.

Cán bộ càng "quản" nhiều, nền kinh tế càng méo mó; cán bộ càng "phục vụ" tốt, nền kinh tế càng phát triển lành mạnh. Vì thế, chuyển đổi từ "hành chính cai quản" sang "hành chính phục vụ" không chỉ là kỹ thuật thể chế, mà là một chuyển hóa văn hóa chính trị sâu sắc.

Thứ ba, cần thiết lập một "quan hệ mới" giữa Nhà nước và doanh nghiệp - quan hệ đối tác phát triển. Quan hệ này dựa trên ba nguyên tắc: Tôn trọng lẫn nhau - doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, Nhà nước tôn trọng quyền tự do kinh doanh chính đáng; Minh bạch lẫn nhau - mọi chính sách, thủ tục phải rõ ràng, tránh cơ chế xin - cho; Đồng hành cùng nhau - Nhà nước cùng chia sẻ rủi ro, cùng kiến tạo cơ hội cho khu vực tư nhân vươn ra thế giới. Chỉ khi đó, niềm tin mới được tái lập và "văn hóa nghi kỵ" sẽ được thay bằng "văn hóa hợp tác".

Thứ tư, phải khơi dậy lòng tự hào và trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam. Khi doanh nhân được Nhà nước và xã hội tin tưởng, họ cũng cần chứng minh rằng niềm tin ấy xứng đáng. Lòng yêu nước trong thời bình chính là làm giàu cho đất nước bằng chính năng lực và sự tử tế. Một doanh nhân lớn không chỉ đo bằng doanh thu, mà còn đo bằng giá trị xã hội mà họ kiến tạo, bằng cách họ ứng xử với người lao động, với môi trường và với cộng đồng.

Thực chất, cải cách thể chế và cải cách thái độ là hai mặt của một đồng xu. Một thể chế dù hiện đại đến đâu cũng không thể vận hành hiệu quả nếu trong lòng nó vẫn tồn tại sự nghi kỵ, sợ hãi và thiếu niềm tin. Và ngược lại, khi niềm tin được khôi phục, khi công quyền và doanh nghiệp cùng nhìn về một hướng thì cả bộ máy sẽ vận hành bằng tinh thần kiến tạo thay vì mệnh lệnh.

Tôi tin rằng, tinh thần của Nghị quyết 68 chính là tuyên ngôn cho một thời kỳ đổi mới tư duy phát triển lần thứ hai - "Đổi mới 2.0". Đó là thời kỳ mà Nhà nước mạnh không phải vì quyền lực, mà vì khả năng tạo niềm tin; Doanh nghiệp mạnh không chỉ vì vốn liếng, mà vì trách nhiệm xã hội; Và đất nước mạnh không chỉ vì GDP, mà vì niềm tin và tinh thần hợp tác giữa Nhà nước - doanh nhân - người dân. Khi tư duy ấy trở thành hiện thực, kinh tế tư nhân Việt Nam sẽ không còn là "đối tượng quản lý" mà là "động lực kiến tạo", còn đội ngũ công quyền sẽ thật sự là người đồng hành vì một Việt Nam hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 12.

- Sự thực, sau gần 40 năm Đổi Mới, nhiều rào cản hành chính vẫn cản trở doanh nghiệp, từ tư duy "xin - cho" tới tâm lý "không quản được thì cấm". Nghị quyết 68 đã nêu rõ yêu cầu loại bỏ những rào cản này, khẳng định người dân, doanh nghiệp được tự do kinh doanh mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm và quyền kinh doanh chỉ bị hạn chế vì lý do đặc biệt, phải do luật định. Ông đánh giá việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh có ý nghĩa ra sao đối với tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo? Cần làm gì để các quy định cải cách thực sự đi vào cuộc sống, xóa bỏ tình trạng giấy phép con, điều kiện kinh doanh bất hợp lý, giúp doanh nghiệp dễ thở hơn trong hoạt động?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Quyền tự do kinh doanh chính là "quyền được sáng tạo và mưu cầu hạnh phúc bằng năng lực của chính mình". Trong mọi nền kinh tế hiện đại, đây là quyền tự do kinh tế cơ bản nhất, nền tảng của mọi động lực tăng trưởng. Khi người dân và doanh nghiệp được tự do phát huy sáng kiến, đầu tư, cạnh tranh lành mạnh, xã hội sẽ tự động tìm ra những giải pháp tốt nhất cho phát triển.

Sau gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã có bước tiến dài trong giải phóng năng lượng thị trường. Nhưng chúng ta vẫn còn bị ràng buộc bởi những "sợi dây vô hình" của tư duy hành chính cũ, tư duy "xin - cho", "quản cho chặt hơn là tạo điều kiện" và "không quản được thì cấm". Những rào cản này tuy không hữu hình như những bức tường, nhưng vẫn đủ dày để chặn đứng tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.

Trước hết, bảo đảm quyền tự do kinh doanh không chỉ là cải cách pháp lý, mà là cải cách tư duy. Đó là tuyên ngôn về niềm tin của Nhà nước vào người dân. Khi Nhà nước khẳng định: "Người dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm", tức là chuyển từ mô hình "xin phép để được quyền" sang "mặc định được quyền". Sự chuyển đổi này giải phóng năng lượng khởi nghiệp, vì nó khơi dậy niềm tin rằng "ý tưởng tốt không cần phải đi qua cửa xin phép".

Tinh thần khởi nghiệp chỉ nảy nở khi người dân cảm thấy được tin tưởng, được tôn trọng và được tự do "thử sai". Chính sự tự do ấy tạo ra sáng tạo, và chính sáng tạo ấy tạo ra của cải cho xã hội.

Thứ hai, quyền tự do kinh doanh là thước đo của năng lực thể chế. Một hệ thống pháp luật tiên tiến không cần "bao cấp rủi ro", mà bao cấp niềm tin và minh bạch. Càng ít rào cản, càng ít "giấy phép con", thì chi phí tuân thủ càng thấp, môi trường kinh doanh càng lành mạnh, và tinh thần đổi mới càng được nhân lên. Ngược lại, mỗi điều kiện kinh doanh bất hợp lý, mỗi quy trình kiểm tra chồng chéo, là một "thuế ẩn" đánh vào sự sáng tạo của doanh nhân.

Cải cách thể chế vì thế không phải là "cắt vài thủ tục", mà là đổi từ văn hóa quản lý sang văn hóa phục vụ. Khi cơ quan công quyền coi doanh nghiệp là "đối tượng chịu quản lý", thì hệ thống sẽ vận hành theo tâm lý nghi ngờ. Nhưng khi coi doanh nghiệp là "đối tác cùng phát triển", thì bộ máy sẽ hành động theo hướng hỗ trợ, đồng hành và khích lệ.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 13.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Thứ ba, để các quy định cải cách thực sự đi vào cuộc sống, cần ba đột phá đồng bộ:

Thứ nhất, đột phá về pháp luật: Tất cả các điều kiện kinh doanh phải được quy định bằng luật, không để tình trạng "luật mở - nghị định siết - thông tư trói". Phải rà soát, hợp nhất và số hóa toàn bộ điều kiện kinh doanh, công khai trên một cổng dữ liệu thống nhất để doanh nghiệp dễ tra cứu, dễ dự báo. Khi pháp luật rõ, cán bộ không còn "vùng xám" để tùy tiện.

Thứ hai, đột phá về trách nhiệm công vụ: Cần thay cơ chế "tránh trách nhiệm" bằng "dám chịu trách nhiệm vì kết quả chung". Mỗi cán bộ phải được đánh giá bằng mức độ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, coi đây là KPI bắt buộc trong cải cách hành chính. Khi thành công của doanh nghiệp trở thành niềm tự hào của công chức, thì môi trường kinh doanh mới thật sự thông thoáng.

Thứ ba, đột phá về chuyển đổi số và minh bạch: Mọi thủ tục hành chính cần được số hóa, minh bạch hóa và giảm tiếp xúc trực tiếp để cắt đứt mối quan hệ "xin - cho". Một "Chính phủ số - Doanh nghiệp số" sẽ tạo ra môi trường quản trị dựa trên dữ liệu, không dựa trên quyền lực. Khi dữ liệu thay thế con dấu, và quy trình tự động thay thế sự tùy tiện, thì tham nhũng vặt, nhũng nhiễu sẽ không còn đất sống.

Cuối cùng, bảo đảm quyền tự do kinh doanh không chỉ là để doanh nghiệp dễ thở, mà còn để đất nước dễ thịnh vượng. Mỗi doanh nhân được tự do sáng tạo là một cánh cửa mở cho sự phát triển. Khi hàng triệu doanh nhân, hộ kinh doanh, người trẻ được trao cơ hội bình đẳng để khởi nghiệp, Việt Nam sẽ có một cuộc cách mạng năng lượng quốc gia, năng lượng của niềm tin và sáng tạo.

Vì thế, tự do kinh doanh không chỉ là một quyền hiến định, mà là linh hồn của nền kinh tế thị trường hiện đại. Một quốc gia thực sự hùng cường không phải là quốc gia có nhiều quy định, mà là quốc gia có nhiều không gian cho sáng kiến, nhiều cơ hội cho người dám nghĩ và dám làm. Đó cũng chính là tinh thần mà Nghị quyết 68 khơi dậy: Giải phóng con người, giải phóng sáng tạo và giải phóng năng lượng phát triển của dân tộc Việt Nam.

- Một điểm cốt lõi của thể chế thị trường là bảo vệ chắc chắn quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng, đồng thời bảo đảm thực thi nghiêm minh các hợp đồng kinh tế. Theo ông, hệ thống pháp luật và tư pháp của Việt Nam cần cải thiện gì để doanh nghiệp tư nhân thực sự yên tâm đầu tư dài hạn? Chúng ta đã đủ khả năng bảo vệ hữu hiệu quyền tài sản của nhà đầu tư và cưỡng chế thực thi hợp đồng hay chưa và nếu chưa thì khoảng trống nằm ở khâu nào? Việc bảo vệ quyền tài sản và pháp quyền mạnh mẽ có tác động thế nào đến niềm tin của doanh nhân và thu hút nguồn lực xã hội vào kinh doanh?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Không có nền kinh tế thị trường hiện đại nào có thể thịnh vượng nếu quyền tài sản không được bảo vệ chắc chắn và hợp đồng không được thực thi nghiêm minh. Pháp quyền, theo đúng nghĩa của nó, không chỉ là "nhà nước cai trị bằng luật", mà là "niềm tin rằng mọi người, mọi tổ chức đều bình đẳng trước luật, và luật là nơi trú ẩn an toàn nhất của công dân".

Thứ nhất, bảo vệ quyền tài sản là nền móng của mọi niềm tin kinh tế. Nếu doanh nghiệp không chắc tài sản của mình được pháp luật bảo vệ, thì họ sẽ không dám đầu tư dài hạn; nếu họ không tin hợp đồng được thực thi, thì họ sẽ chỉ làm ăn ngắn hạn; và nếu họ không tin công lý, thì họ sẽ tìm cách "chạy an toàn" thay vì "chạy sáng tạo".

Một nền kinh tế muốn phát triển bền vững phải bảo đảm ba "an toàn pháp lý" căn bản: An toàn sở hữu, không ai bị tước đoạt tài sản hoặc quyền kinh doanh ngoài khuôn khổ pháp luật, và mọi tranh chấp đều được giải quyết minh bạch, kịp thời; An toàn hợp đồng, mọi cam kết được tôn trọng và có cơ chế cưỡng chế hiệu quả khi bị vi phạm; An toàn pháp lý trong dự báo, doanh nghiệp có thể dự đoán được hậu quả pháp lý của mọi hành vi, chứ không phải sống trong "vùng xám" của các quy định chồng chéo.

Thứ hai, khoảng trống của Việt Nam hiện nay không nằm ở ý chí, mà ở năng lực thể chế. Chúng ta đã có tiến bộ lớn về lập pháp: quyền sở hữu, quyền kinh doanh, quyền bình đẳng được ghi nhận rõ trong Hiến pháp 2013 và nhiều đạo luật. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở sự chồng chéo, mâu thuẫn của pháp luật, ở khâu thực thi và tư pháp.

Ở khâu lập pháp, nhiều quy định vẫn chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, đặc biệt là giữa Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Bộ luật Dân sự, khiến quyền tài sản trên đất đai, cổ phần, tài sản trí tuệ… chưa được xác định rõ ràng, làm giảm giá trị tài sản thế chấp và niềm tin pháp lý.

Ở khâu thực thi, tình trạng "trên nóng - dưới lạnh" vẫn tồn tại. Nhiều địa phương còn lúng túng, sợ trách nhiệm, dẫn đến trì hoãn, thậm chí né tránh trong việc cấp phép, xử lý tranh chấp hoặc bảo vệ nhà đầu tư. Quyền được kinh doanh của người dân vì thế vẫn phải "xin" mới được "cho".

Ở khâu tư pháp, cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tuy đã tiến bộ nhưng vẫn thiếu tính chuyên nghiệp và nhất quán. Thời gian xét xử còn kéo dài, việc thi hành án dân sự, kinh tế còn chậm, trong khi niềm tin vào công lý thương mại vẫn chưa đủ mạnh để doanh nghiệp xem tòa án là nơi đầu tiên tìm đến khi có tranh chấp.

Thứ ba, bảo vệ quyền tài sản và thực thi hợp đồng nghiêm minh chính là "thuốc thử" của cải cách thể chế. Một bản hợp đồng được tôn trọng hơn cả con dấu hành chính, đó là dấu hiệu của một nền pháp quyền hiện đại. Một vụ tranh chấp được giải quyết nhanh, công bằng, không ai cần "chạy cửa sau", đó là dấu hiệu của niềm tin được khôi phục.

Muốn đạt được điều đó, cần ba cải cách đồng bộ: Cải cách pháp luật theo hướng nhất quán và dễ dự báo: Mọi quyền tài sản phải được luật hóa rõ ràng, có thể định lượng, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế mà không phụ thuộc vào diễn giải tùy tiện của cơ quan hành chính; Tăng cường độc lập và năng lực của tòa án: Các tòa kinh tế cần có thẩm phán chuyên nghiệp, hiểu sâu về hợp đồng, đầu tư, tài chính; đồng thời phải xây dựng cơ chế thi hành án minh bạch, có hiệu quả; Đẩy mạnh cơ chế trọng tài và hòa giải thương mại: Cho phép doanh nghiệp tự lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh, linh hoạt, được Nhà nước công nhận và bảo đảm thi hành.

Thứ tư, một nền pháp quyền mạnh là "chất keo của niềm tin" trong kinh tế. Khi quyền tài sản được bảo vệ, nhà đầu tư sẽ yên tâm rót vốn dài hạn; Khi hợp đồng được thực thi, doanh nghiệp sẽ dám mở rộng sản xuất, ký kết đối tác quốc tế; Và khi pháp luật được thực thi công bằng, những người làm ăn chân chính sẽ không còn thua thiệt trước kẻ cơ hội.

Đó là lý do vì sao các nước có hệ thống tư pháp minh bạch, như Singapore, Hàn Quốc, Đức, luôn là điểm đến hàng đầu của dòng vốn toàn cầu. Họ không chỉ hấp dẫn bằng ưu đãi thuế, mà bằng "niềm tin vào pháp luật".

Ở Việt Nam, xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh chính là điều kiện tiên quyết để Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành hiện thực. Khi doanh nhân tin rằng "luật đứng về phía người làm đúng", họ sẽ dám đầu tư, dám đổi mới và dám đi xa hơn. Pháp quyền vững mạnh không chỉ bảo vệ tài sản, mà còn giải phóng khát vọng, vì không ai còn sợ mất công sức và thành quả của mình.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 14.

Một nền pháp quyền công bằng, minh bạch và dự báo được, đó chính là hạ tầng tinh thần của nền kinh tế thị trường hiện đại, và là điều kiện cần cho Việt Nam vươn lên hàng ngũ những quốc gia phát triển, thịnh vượng và tự tin trong thế kỷ XXI.

- Nghị quyết 68 đặt mục tiêu tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, hướng tới năm 2028 đưa môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam vào nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN và 30 nước hàng đầu thế giới. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, theo ông, những cải cách thủ tục hành chính nào cần được ưu tiên hàng đầu? Chính phủ cần làm gì để cắt giảm thực chất thời gian, chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp? Ông có cho rằng việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị công, với dịch vụ công trực tuyến, AI, dữ liệu lớn sẽ là chìa khóa giảm nhũng nhiễu, tăng minh bạch, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí không chính thức?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Mục tiêu mà Nghị quyết 68 đặt ra là vô cùng táo bạo nhưng hoàn toàn khả thi, nếu chúng ta dám đi đến cùng tinh thần cải cách: Từ hành chính quản lý sang hành chính phục vụ; từ cơ chế xin - cho sang cơ chế minh bạch và tự động; từ "Chính phủ điều hành" sang "Chính phủ kiến tạo và số hóa".

Thực tế cho thấy, môi trường kinh doanh thông thoáng không phải là kết quả của khẩu hiệu, mà là kết quả của năng lực thực thi. Muốn đứng vào nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN, chúng ta không thể chỉ nói về cải cách, mà phải biến cải cách thành trải nghiệm hằng ngày của doanh nghiệp.

Thứ nhất, ưu tiên cắt giảm tận gốc các thủ tục hành chính phát sinh chi phí và rủi ro. Cải cách hành chính không thể dừng ở việc "giảm bớt giấy tờ," mà phải là cải cách logic quản lý. Cần rà soát lại toàn bộ thủ tục trong các lĩnh vực có tác động lớn nhất đến môi trường đầu tư, như đất đai, xây dựng, thuế, hải quan, môi trường, kiểm tra chuyên ngành để loại bỏ những khâu không cần thiết, chồng chéo, hoặc chỉ nhằm mục đích "xin dấu".

Mỗi thủ tục phải được đo bằng "chi phí tuân thủ" mà doanh nghiệp thực sự phải bỏ ra: Chi phí thời gian, cơ hội và cả chi phí không chính thức. Khi Chính phủ nhìn cải cách qua lăng kính chi phí xã hội, thay vì qua số lượng văn bản, thì mọi quyết định sẽ hướng đến giảm gánh nặng thực chất cho doanh nghiệp.

Thứ hai, Chính phủ cần chuyển từ tư duy "kiểm soát đầu vào" sang "đánh giá kết quả đầu ra". Thay vì cấp phép từng chi tiết, Nhà nước cần đặt ra chuẩn mực về chất lượng, an toàn, môi trường và để doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm đạt chuẩn đó. Mô hình "hậu kiểm" cần thay thế "tiền kiểm," vì kiểm tra trước là dấu hiệu của thiếu niềm tin, còn hậu kiểm là biểu hiện của một nền hành chính trưởng thành và tin vào luật.

Đồng thời, phải xác lập nguyên tắc "một cửa - một lần - một dữ liệu".

Mọi thủ tục phải được xử lý trên nền tảng dữ liệu dùng chung, để doanh nghiệp không phải khai đi khai lại, nộp hồ sơ nhiều nơi. Mỗi bộ, ngành phải trở thành một mắt xích trong hệ thống phục vụ thống nhất, chứ không phải "lãnh địa hành chính" riêng biệt.

Thứ ba, chuyển đổi số là chìa khóa then chốt của minh bạch và hiệu quả. Chúng ta đang bước vào thời đại mà dữ liệu là quyền lực mới và AI là công cụ để làm trong suốt quyền lực đó. Mọi thủ tục hành chính có thể / và phải được số hóa hoàn toàn, từ đăng ký kinh doanh, cấp phép xây dựng, đến thanh toán thuế, hải quan, kiểm định, đấu thầu. Khi quy trình tự động, cửa quyền sẽ khép lại; khi dữ liệu công khai, nhũng nhiễu sẽ không còn đất sống.

Công nghệ không chỉ giúp rút ngắn thời gian, mà còn giúp thay đổi quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp: Từ "xin - cho" sang "giao tiếp thông minh"; từ "hồ sơ giấy" sang "hồ sơ số"; từ "chờ đợi công chức" sang "truy cập 24/7".

Đặc biệt, ứng dụng AI và dữ liệu lớn (Big Data) sẽ cho phép Chính phủ giám sát quy trình hành chính theo thời gian thực, phát hiện nơi trì trệ, nơi nhũng nhiễu và biến minh bạch thành công cụ quản trị quyền lực.

Thứ tư, phải cải cách hành vi và trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ. Dù công nghệ tiên tiến đến đâu, nếu con người vẫn mang tâm lý "ban phát quyền lợi" thì cải cách vẫn sẽ tắc nghẽn. Vì vậy, cùng với số hóa thủ tục, cần số hóa trách nhiệm, nghĩa là mọi quyết định, mọi thao tác của cán bộ đều được ghi nhận, theo dõi và đánh giá. Cán bộ không chỉ "làm đúng" mà phải "làm nhanh, làm tốt và làm vì dân, vì doanh nghiệp".

Chính phủ cần đưa chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) và chỉ số hài lòng của người dân, doanh nghiệp (SIPAS) trở thành KPI bắt buộc để đánh giá năng lực lãnh đạo, bổ nhiệm, khen thưởng. Cán bộ nào làm chậm, gây phiền hà, cản trở doanh nghiệp phải bị xem là "chi phí của Nhà nước".

Cuối cùng, minh bạch và chuyển đổi số không chỉ làm cho bộ máy hiệu quả hơn, mà còn làm cho quốc gia đáng tin hơn. Môi trường đầu tư tốt không chỉ là môi trường ít thủ tục, mà là nơi doanh nhân cảm nhận được sự tôn trọng, công bằng và chắc chắn về pháp lý. Khi Chính phủ vận hành bằng dữ liệu, khi mọi quyết định được theo dõi công khai, thì niềm tin trở thành nguồn vốn lớn nhất của nền kinh tế.

Nếu làm được như vậy, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu mà Nghị quyết 68 đặt ra: Một môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, chi phí thấp, vận hành theo chuẩn quốc tế, nơi Nhà nước không phải là "người gác cổng," mà là "người mở đường" cho sáng tạo, đầu tư và phát triển. Đó sẽ là bước nhảy vọt của Đổi mới 2.0, nơi cải cách thể chế, cải cách công vụ và chuyển đổi số cùng hội tụ, để giải phóng toàn bộ năng lượng phát triển của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên thịnh vượng mới.

- Nghe phân tích của Tiến sĩ, tôi nhớ đến lưu ý của GS. Dani Rodrik - Giáo sư Kinh tế Chính trị Quốc tế của Quỹ Ford tại Trường Harvard Kennedy rằng, cốt lõi để duy trì tăng trưởng dài hạn chính là "cải cách thể chế cho thật đàng hoàng" (sound institutional reform), bao gồm các yếu tố như giám sát tài chính chặt chẽ, quản trị doanh nghiệp hiệu quả, giảm tham nhũng, xây dựng quan hệ Nhà nước - thị trường lành mạnh… Từ thực tiễn Việt Nam, theo ông, đâu là những nút thắt thể chế lớn nhất đang kìm hãm sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân? Chúng ta cần ưu tiên cải cách lĩnh vực nào trước tiên để tạo bước đột phá thực sự cho kinh tế tư nhân?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Quả thực, cốt lõi để duy trì tăng trưởng dài hạn chính là "cải cách thể chế cho thật đàng hoàng". Một nền kinh tế chỉ có thể lớn mạnh khi luật lệ rõ ràng, quyền tài sản được bảo vệ, cạnh tranh bình đẳng và quan hệ giữa Nhà nước với thị trường trong sáng, lành mạnh. Nhìn lại Việt Nam sau gần bốn mươi năm Đổi mới, có thể thấy những thành tựu là rất lớn, nhưng cũng còn nhiều nút thắt thể chế đang cản trở khu vực tư nhân bứt phá.

Trước hết, quyền tài sản và tính dự báo pháp lý vẫn còn "vùng xám". Các luật về đất đai, đầu tư, xây dựng, môi trường, đấu thầu… vẫn còn chồng chéo, thay đổi thường xuyên, khiến doanh nghiệp không dám đầu tư dài hạn vì sợ rủi ro bị "hồi tố mềm". Khi khung pháp lý chưa ổn định, niềm tin thị trường cũng không thể vững vàng.

Thứ hai, thủ tục tiếp cận đất đai và phê duyệt dự án vẫn là điểm nghẽn lớn nhất. Một dự án có thể mất hàng năm trời để đi qua các vòng quy hoạch, chuyển mục đích, định giá, giải phóng mặt bằng, thẩm định môi trường… Mỗi khâu là một cửa, mỗi cửa là một dấu và mỗi dấu là một rủi ro chi phí.

Thứ ba, hệ thống tài chính - tín dụng vẫn nặng về thế chấp tài sản, trong khi thị trường vốn chưa đủ độ sâu. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, rất khó vay vốn chỉ bằng năng lực kinh doanh. Nguồn vốn dài hạn cho tư nhân còn thiếu, còn đắt và còn lệ thuộc quá nhiều vào ngân hàng.

Thứ tư, bộ máy hành chính công vẫn còn "chi phí thể chế" cao. Tư duy tiền kiểm, cơ chế xin - cho, điều kiện kinh doanh chồng chéo, và tâm lý sợ sai khiến nhiều cán bộ chọn "không làm để khỏi rủi ro". Khi người thực thi thiếu động lực, cả nền kinh tế bị kéo chậm lại.

Và cuối cùng, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn đang chiếm dụng nguồn lực lớn nhưng hiệu quả thấp. Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động ngoài lĩnh vực cốt lõi, hưởng ưu đãi ngầm về vốn, đất, hoặc bảo lãnh, khiến thị trường cạnh tranh bị méo mó và khu vực tư nhân khó vươn lên.

Một nền kinh tế chỉ có thể lớn mạnh khi luật lệ rõ ràng, quyền tài sản được bảo vệ, cạnh tranh bình đẳng và quan hệ giữa Nhà nước với thị trường trong sáng, lành mạnh.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 15.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Để tháo các nút thắt này, theo tôi, thứ tự ưu tiên cải cách cần được xác định rõ.

Thứ nhất, phải bắt đầu từ quyền tài sản và thực thi hợp đồng, vì đó là nền móng của niềm tin. Cần luật hóa rõ ràng mọi loại tài sản (đất, cổ phần, tài sản số, sở hữu trí tuệ) để có thể chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế; thống nhất cách hiểu giữa các luật; và bảo đảm nguyên tắc "không hình sự hóa quan hệ kinh tế, không hồi tố trong quản lý".

Tòa án kinh tế - thương mại chuyên trách phải được tăng quyền, xử nhanh và thi hành án hiệu quả. Khi doanh nghiệp tin rằng "hợp đồng là luật", họ mới dám đầu tư lâu dài.

Thứ hai, cải cách Luật Đất đai và thủ tục đầu tư để giảm chi phí vốn. Cần một hệ thống "một cửa - một dữ liệu - một chuẩn", nơi hồ sơ quy hoạch, đất, môi trường, xây dựng được liên thông điện tử và có thời hạn xử lý rõ ràng. Cơ chế "im lặng là đồng ý" nên được áp dụng với các thủ tục rủi ro thấp và định giá đất phải theo thị trường minh bạch thông qua đấu giá, đấu thầu công khai.

Thứ ba, mở rộng kênh tài chính cho tư nhân. Phải xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng quốc gia, thúc đẩy cho vay dựa trên dòng tiền, chia sẻ dữ liệu thuế - hóa đơn - ngân hàng để ngân hàng dám cho vay không cần tài sản cứng. Thị trường vốn cần phát triển cùng hệ thống xếp hạng tín nhiệm, công bố thông tin chuẩn mực, và cơ chế thử nghiệm (sandbox) cho fintech, quỹ mạo hiểm, tín dụng xanh, đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, cải cách hành chính công để giảm chi phí thể chế. Mọi điều kiện kinh doanh phải được quy định ở cấp luật; các quy định trái luật phải tự động vô hiệu. Chính phủ số, dữ liệu dùng chung và dịch vụ công trực tuyến 100% sẽ giúp doanh nghiệp bớt phải "xin", còn cơ quan quản lý bớt quyền tùy tiện. Cán bộ cần được đánh giá bằng kết quả tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, chứ không phải bằng số lượng hồ sơ đã "xử lý".

Thứ năm, cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước theo kỷ luật thị trường. Cần tách rõ vai trò Nhà nước với vai trò chủ sở hữu vốn, công bố thông tin theo chuẩn IFRS (International Financial Reporting Standards - tức là Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế), thoái vốn khỏi lĩnh vực ngoài lõi, và buộc doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh công bằng như tư nhân. Khi doanh nghiệp nhà nước chịu ràng buộc thị trường, nguồn lực quốc gia mới chảy đúng hướng, tới nơi hiệu quả nhất.

Tất cả các cải cách này cần được triển khai theo lộ trình ba tầng, hai nhịp và một bảng điều khiển.

Ba tầng: Luật khung rõ nguyên tắc - nghị định đơn giản - quy trình chuẩn hóa điện tử.

Hai nhịp: Cải cách nhanh trong 12 - 18 tháng (cắt giấy phép con, số hóa thủ tục) và cải cách dài hạn 24 - 36 tháng (tòa kinh tế, thị trường vốn, định giá đất).

Một bảng điều khiển: Dashboard công khai về chi phí tuân thủ, thời gian xử lý, tỷ lệ tranh chấp giải quyết đúng hạn, vốn tư nhân huy động gắn trực tiếp với trách nhiệm người đứng đầu.

Khi các nút thắt thể chế được tháo gỡ, niềm tin của doanh nhân sẽ hồi sinh, vốn tư nhân sẽ trở lại, năng suất sẽ tăng, và những "đầu tàu tư nhân" mới sẽ xuất hiện trong chuỗi giá trị toàn cầu. Cải cách thể chế, suy cho cùng, không chỉ là chuyện thủ tục hay pháp lý; đó là cuộc tái định hình văn hóa quyền lực, để quyền lực phục vụ phát triển chứ không cản trở phát triển.

Làm được như vậy, Việt Nam sẽ hiện thực hóa lời khuyên của Dani Rodrik, "cải cách thể chế cho thật đàng hoàng", để giải phóng toàn bộ năng lượng của khu vực tư nhân và mở cánh cửa bước vào kỷ nguyên thịnh vượng tự cường.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 16.

- Ngược dòng lịch sử, ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho giới Công - Thương, bày tỏ: "Giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng". Thực tế, nhiều nhà tư sản dân tộc nửa đầu thế kỷ XX đã đóng góp tài sản và tâm lực cho sự nghiệp độc lập và phát triển quốc gia. Theo ông, bài học tinh thần nào từ những doanh nhân yêu nước thuở trước có thể vận dụng vào ngày nay? Việc nhìn lại lịch sử, khi doanh nhân từng đem tất cả của cải đóng góp cho đất nước, có gợi mở gì trong việc bồi đắp lý tưởng và trách nhiệm dân tộc cho thế hệ doanh nhân hiện đại?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Lịch sử dân tộc Việt Nam có một điều đặc biệt: Ngay cả trong thương trường, tinh thần yêu nước vẫn là ngọn lửa dẫn đường.

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho giới Công - Thương, nhắn nhủ: "Giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng". Đó không chỉ là lời kêu gọi làm giàu, mà là mệnh lệnh của trái tim, biến tài năng kinh doanh thành sức mạnh dựng nước.

Bài học lớn nhất từ các doanh nhân dân tộc thuở ấy là: Yêu nước không chỉ trong chiến đấu, mà còn cả trong kiến tạo.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 17.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Nhìn lại nửa đầu thế kỷ XX, Việt Nam từng có một thế hệ doanh nhân đặc biệt: Bạch Thái Bưởi, Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Hữu Thu, Lương Văn Can… Họ làm kinh tế không chỉ để mưu sinh, mà để giành lại quyền làm chủ vận mệnh dân tộc trên thương trường. Bạch Thái Bưởi mua lại tàu của người Pháp, treo cờ "Người Việt đi tàu Việt", đó là một tuyên ngôn về bản lĩnh kinh tế. Trịnh Văn Bô hiến hàng nghìn lượng vàng cho Chính phủ cách mạng, đó là biểu tượng của tinh thần "dân giàu - nước mạnh". Những con người ấy đã biến doanh nghiệp thành địa chỉ của lòng yêu nước, biến làm giàu thành một hành động chính trị cao quý: Khẳng định rằng người Việt có thể tự làm chủ vận mệnh kinh tế của mình.

Bài học lớn nhất từ các doanh nhân dân tộc thuở ấy là: Yêu nước không chỉ trong chiến đấu, mà còn cả trong kiến tạo. Họ hiểu rằng độc lập chính trị sẽ không thể bền vững nếu không có độc lập kinh tế. Vì thế, kinh doanh đối với họ không đơn thuần là sinh kế, mà là sứ mệnh. Làm giàu cho dân, tạo việc làm, nâng cao dân trí chính là cách họ phụng sự đất nước trong thời bình.

Ngày nay, khi Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu, tinh thần ấy vẫn còn nguyên giá trị, nhưng cần được chuyển hóa từ "cống hiến vật chất" sang "cống hiến trí tuệ và trách nhiệm xã hội". Doanh nhân thời nay không cần "hiến vàng" như ông Trịnh Văn Bô, nhưng họ có thể hiến tâm và hiến sáng tạo để phát triển công nghệ, xây dựng thương hiệu Việt toàn cầu, bảo vệ môi trường, tạo công ăn việc làm và lan tỏa giá trị nhân văn. Đó là hình thái mới của lòng yêu nước trong kỷ nguyên kinh tế tri thức.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 18.

Nhìn lại lịch sử để soi chiếu hôm nay, ta nhận ra một điều sâu sắc:

Mỗi giai đoạn của dân tộc đều có "mặt trận" riêng: Khi xưa là mặt trận kháng chiến, nay là mặt trận phát triển. Nếu các chiến sĩ năm xưa chiến đấu để giành độc lập, thì doanh nhân hôm nay chiến đấu để giành vị thế xứng đáng cho Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu cha ông từng hiến cả tài sản để giành lại chủ quyền, thì thế hệ hôm nay cần dám hiến công sức, trí tuệ và lòng tin để kiến tạo một Việt Nam hùng cường, tự chủ và thịnh vượng.

Vì thế, tinh thần doanh nhân dân tộc không chỉ là lòng yêu nước, mà còn là niềm tin vào khả năng của người Việt. Tin rằng ta có thể làm ra sản phẩm Việt đủ sức cạnh tranh toàn cầu. Tin rằng "người Việt có thể đi tàu Việt", như Bạch Thái Bưởi từng mơ ước, chỉ khác là hôm nay, "con tàu Việt" không còn chạy bằng than, mà chạy bằng trí tuệ, đổi mới và khát vọng.

Những giá trị yêu nước, tự lực, phụng sự và niềm tin vào dân tộc, chính là di sản tinh thần quý giá nhất mà thế hệ doanh nhân đi trước để lại. Trong kỷ nguyên hội nhập và cạnh tranh toàn cầu, đó vẫn là kim chỉ nam để doanh nhân Việt Nam vừa làm giàu, vừa làm mạnh cho đất nước. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Ta có thể nối tiếp câu ấy hôm nay rằng: "Một dân tộc không dám làm giàu bằng năng lực của mình cũng sẽ mãi yếu". Doanh nhân dân tộc, theo nghĩa đẹp nhất chính là những người dám biến khát vọng cá nhân thành khát vọng quốc gia. Họ chính là những chiến sĩ của thời bình, cầm trong tay không phải súng đạn, mà là ý tưởng, bản lĩnh và niềm tin vào Việt Nam.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 19.

- Đúng như ông nhận định, những giá trị yêu nước, tự lực, phụng sự và niềm tin vào dân tộc, chính là di sản tinh thần quý giá nhất mà thế hệ doanh nhân đi trước để lại. Ngày này, những doanh nhân như ông Phạm Nhật Vượng đang nối tiếp tinh thần ấy, tiên phong đưa thương hiệu Việt vươn tầm thế giới, điển hình qua dự án xe điện VinFast. Thành công bước đầu của VinFast cho thấy người Việt có thể làm chủ công nghệ cao, cạnh tranh với các "ông lớn" quốc tế ngay trên sân nhà. Thông qua khát vọng này của doanh nhân Phạm Nhật Vượng, ông đánh giá như thế nào về vai trò của những doanh nhân dám nghĩ lớn, dám làm những việc "khác người" vì lợi ích dài hạn của đất nước?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Trong mọi giai đoạn lịch sử, dân tộc nào cũng cần những người dám đi trước thời đại, dám làm điều tưởng chừng bất khả để mở ra con đường mới cho quốc gia. Ở Việt Nam hôm nay, ông Phạm Nhật Vượng chính là hình mẫu tiêu biểu của tinh thần đó, một doanh nhân không chỉ làm kinh tế, mà đang kiến tạo niềm tin dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 20.

Khi VinFast ra đời, nhiều người hoài nghi: "Liệu Việt Nam có thể làm ô tô? Có thể cạnh tranh với Tesla, Toyota, hay BMW không?". Nhưng khi những chiếc xe điện mang logo chữ "V" lăn bánh trên đường phố Mỹ, đó không chỉ là một sản phẩm thương mại, mà là biểu tượng của lòng tin rằng người Việt có thể làm được điều mà thế giới tưởng ta không thể.

Thành công bước đầu của VinFast mang một ý nghĩa vượt ra ngoài phạm vi doanh nghiệp. Nó khẳng định rằng khát vọng dân tộc có thể được hiện thực hóa bằng con đường thị trường, bằng sức mạnh của tư nhân, bằng năng lực đổi mới sáng tạo. Ở tầm sâu hơn, đó là một lời tuyên bố với thế giới rằng: Việt Nam không chỉ là công xưởng, mà có thể là nguồn sáng tạo; không chỉ là nơi tiếp nhận công nghệ, mà có thể là người tạo ra công nghệ.

Phạm Nhật Vượng dám "đánh cược" vào tương lai, không phải để kiếm lợi ngắn hạn, mà để đặt viên gạch cho công nghiệp Việt Nam bước vào kỷ nguyên công nghệ cao. Đó là tinh thần doanh nhân dân tộc mới: Lấy lợi nhuận làm phương tiện, chứ không phải mục đích; lấy giá trị Việt Nam làm nền tảng, chứ không phải khẩu hiệu.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 21.

Vai trò của những doanh nhân dám nghĩ lớn, dám làm khác, chính là khai phá không gian mới cho nền kinh tế. Họ không chỉ tạo việc làm hay đóng thuế, mà thay đổi cách quốc gia được nhìn nhận. Khi một doanh nghiệp Việt có thể đứng cạnh các tập đoàn hàng đầu thế giới, thì hình ảnh "người Việt nhỏ bé" trong tâm thức chúng ta cũng thay đổi. Chính vì thế, doanh nhân tiên phong như ông Phạm Nhật Vượng không chỉ làm giàu cho bản thân, mà còn làm giàu cho niềm tin tập thể của dân tộc.

Một đất nước chỉ có thể đi xa nếu có nhiều người dám mơ giấc mơ lớn và dám đánh đổi để biến giấc mơ ấy thành hiện thực. Trong lịch sử, những người như Bạch Thái Bưởi đã khởi đầu tinh thần ấy trên sông nước; ngày nay, Phạm Nhật Vượng đang tiếp nối nó bằng công nghệ, năng lượng và tầm nhìn toàn cầu. Từ "tàu Việt" đến "xe Việt", từ "tự lực dân tộc" đến "thương hiệu quốc gia", đó là một đường chỉ đỏ xuyên suốt, nối liền hào khí dân tộc xưa với khát vọng hùng cường hôm nay.

Cách đây ít ngày, ông đã đưa ra đề xuất đáng chú ý: "Phải làm sao để đất nước có 100 ông Phạm Nhật Vượng". Vậy ông đã có suy nghĩ thấu đáo về việc, làm sao để có nhiều hơn những doanh nhân như Phạm Nhật Vượng - sẵn sàng mạo hiểm, đổi mới sáng tạo nhằm xây dựng những thương hiệu Việt Nam tầm cỡ quốc tế, qua đó hiện thực hóa khát vọng dân tộc cường thịnh?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Làm sao để có thêm nhiều doanh nhân như thế? Điều đó không thể chỉ dựa vào cá nhân xuất chúng, mà cần một môi trường nuôi dưỡng tinh thần dám nghĩ lớn. Tôi cho rằng, cần ba điều kiện then chốt:

Thứ nhất, một thể chế bảo vệ rủi ro cho người tiên phong. Nhà nước cần nhìn nhận "thất bại sáng tạo" là một phần tự nhiên của đổi mới. Không ai có thể làm điều lớn nếu phải sợ sai, sợ bị hiểu lầm, sợ bị quy chụp. Khi thể chế coi trọng người dám đi trước, thay vì trừng phạt họ vì sai sót nhỏ thì tinh thần dấn thân sẽ lan tỏa.

Thứ hai, một hệ sinh thái tài chính cho khát vọng lớn. Những dự án như VinFast hay Viettel, FPT, TH True Milk… đều đòi hỏi vốn lớn, công nghệ cao và thời gian dài. Vì thế, cần thị trường vốn mạnh, quỹ đầu tư chiến lược, tín dụng ưu tiên cho đổi mới, và chính sách thuế thưởng cho R&D, năng lượng xanh, công nghiệp nền tảng. Vốn và thể chế là hai đôi cánh của sáng tạo.

Thứ ba, một nền văn hóa tôn vinh doanh nhân sáng tạo. Khi xã hội nhìn doanh nhân như người cống hiến chứ không phải kẻ vụ lợi; khi trẻ em được dạy rằng làm giàu bằng trí tuệ là điều đáng tự hào; khi truyền thông tôn vinh người dám đi, dám thất bại, thì đất nước ấy sẽ không bao giờ thiếu người tiên phong. Tôn vinh không phải để ngợi ca, mà để truyền cảm hứng cho thế hệ kế tiếp.

Sự xuất hiện của Phạm Nhật Vượng hay những doanh nhân Việt dám ra thế giới là dấu hiệu cho thấy dân tộc ta đang chuyển từ tâm thế phòng thủ sang tư thế dẫn dắt. Từ chỗ "đi sau để học," ta đã bắt đầu "đi cùng để sáng tạo". Và nếu có thêm mười, hai mươi, năm mươi, một trăm doanh nhân như thế, thì giấc mơ "Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc" sẽ không còn là viễn tưởng.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 22.

Những người như Phạm Nhật Vượng nhắc ta nhớ rằng: Một doanh nhân có thể thay đổi số phận của ngành và một thế hệ doanh nhân có thể thay đổi số phận của đất nước. Họ chính là những Bạch Thái Bưởi của thế kỷ XXI, mang trong mình tinh thần dân tộc xưa, nhưng vũ khí của họ là tri thức, công nghệ và khát vọng toàn cầu. Và khi niềm tin dân tộc được tiếp sức bởi những con người như thế, Việt Nam chắc chắn sẽ bước vào kỷ nguyên thịnh vượng do chính người Việt kiến tạo.

- Anh hùng Lao động Thái Hương, Nhà sáng lập Tập đoàn TH nổi tiếng với sứ mệnh làm sữa tươi sạch "vì tầm vóc Việt". Xuất phát từ trăn trở trước sức khỏe trẻ em và mong muốn tự chủ nguồn sữa cho người Việt, bà đã mạnh dạn đầu tư dự án TH True Milk trên đồng đất quê hương Nghệ An, kết hợp "nguồn tài nguyên thiên nhiên Việt, trí tuệ Việt với công nghệ của thế giới… và trái tim Việt Nam" để tạo ra sản phẩm sữa tươi sạch đầu tiên cho thị trường nội địa. Với tầm nhìn của "một doanh nhân yêu nước với khát khao góp phần nâng cao tầm vóc, thể lực và trí lực người Việt", bà Thái Hương không chỉ xây dựng doanh nghiệp lớn mạnh mà còn kiên trì đề xuất các tiêu chuẩn dinh dưỡng cho cộng đồng, được quốc tế vinh danh vì đóng góp phát triển bền vững. Ông có nhận định gì về ý nghĩa của những doanh nhân như bà Thái Hương, khi đặt sứ mệnh phụng sự dân tộc làm trọng tâm trong hoạt động kinh doanh?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Trong mỗi thời đại, dân tộc nào cũng cần những người làm kinh tế mà trong tim họ vẫn vang vọng tinh thần phụng sự Tổ quốc. Doanh nhân Thái Hương - Nhà sáng lập Tập đoàn TH, là một trong những hình ảnh đẹp nhất của doanh nhân dân tộc trong thời đại mới, người kết hợp giữa khát vọng công nghiệp hóa nông nghiệp với đạo lý nhân văn Việt Nam.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 23.

Xuất phát điểm của bà Thái Hương không phải là lợi nhuận, mà là nỗi trăn trở vì sức khỏe của trẻ em Việt Nam, vì tầm vóc và trí tuệ của giống nòi. Trong khi nhiều người vẫn chọn con đường an toàn, bà đã dấn thân vào lĩnh vực nông nghiệp - một lĩnh vực đầy rủi ro, đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao, để tạo ra nguồn sữa tươi sạch đầu tiên "vì tầm vóc Việt". Dự án TH True Milk không chỉ là câu chuyện của một thương hiệu, mà là biểu tượng của tinh thần làm kinh tế gắn với trách nhiệm dân tộc.

Điều đáng quý ở bà Thái Hương là bà làm kinh doanh mà như làm văn hóa. Bà đã định nghĩa lại "nguồn nguyên liệu" của một doanh nghiệp không chỉ là đất, là vốn, là công nghệ, mà còn là trái tim Việt Nam.

Câu nói của bà:"Kết hợp nguồn tài nguyên thiên nhiên Việt, trí tuệ Việt, công nghệ của thế giới và trái tim Việt Nam", không chỉ là slogan thương mại, mà là triết lý phát triển mang bản sắc Việt.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 24.

Bằng cách đó, bà Thái Hương đã chứng minh rằng, doanh nhân có thể vừa tạo ra giá trị kinh tế, vừa kiến tạo giá trị tinh thần cho xã hội. Khi doanh nghiệp biết lấy "tử tế" làm nền tảng, "chất lượng" làm ngôn ngữ, và "niềm tin" làm thương hiệu, thì sản phẩm của họ không chỉ chinh phục thị trường, mà còn chạm tới trái tim con người.

Những doanh nhân như bà Thái Hương có ý nghĩa đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước. Họ là cầu nối giữa đạo lý truyền thống và kinh tế hiện đại, giữa "nghĩa" và "lợi", giữa "trí" và "tâm". Trong một thế giới chạy đua vì lợi nhuận, họ chọn con đường khó hơn: Kinh doanh để phụng sự. Nhưng chính con đường đó mới giúp doanh nghiệp Việt Nam đi xa, vì sức mạnh mềm của đạo đức kinh doanh là loại sức mạnh bền vững nhất.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 25.

Liệu tinh thần đề cao các giá trị nhân văn, đạo lý "kinh doanh tử tế" của họ có phải là nền tảng để phát triển một nền kinh tế vừa cạnh tranh, hiện đại, vừa bền vững, bao trùm cho Việt Nam hay không?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tinh thần "kinh doanh tử tế" mà các doanh nhân như bà Thái Hương, ông Trương Gia Bình, Đặng Lê Nguyên Vũ hay nhiều doanh nhân Việt khác đang theo đuổi chính là đạo kinh doanh Việt Nam hiện đại. Đó là triết lý kết hợp giữa "trí" - sáng tạo và công nghệ; "tín" - giữ lời và niềm tin; "nhân" - coi con người là trung tâm; và "nghĩa" - đặt lợi ích quốc gia, cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Nếu "đạo đức làm người" là linh hồn của văn hóa Việt, thì "đạo đức làm giàu" là linh hồn của kinh tế Việt trong thời kỳ hội nhập.

Khi kinh doanh gắn liền với đạo lý, doanh nghiệp không chỉ tạo ra GDP, mà còn tạo ra giá trị sống, từ sức khỏe, giáo dục, môi trường đến văn hóa tiêu dùng. Và khi đạo lý trở thành chuẩn mực cạnh tranh, nền kinh tế Việt Nam sẽ không còn chỉ mạnh về quy mô, mà mạnh về phẩm giá.

Thực tế, sự phát triển bền vững của một quốc gia không thể chỉ dựa vào tốc độ tăng trưởng, mà phải dựa vào chất lượng đạo đức của hệ sinh thái kinh doanh. Một nền kinh tế tử tế sẽ tự kháng thể với tham nhũng, gian dối và ngắn hạn; sẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo, minh bạch và trách nhiệm xã hội. Đó chính là nền tảng của một nền kinh tế vừa cạnh tranh, hiện đại, vừa nhân văn và bao trùm.

Nếu doanh nhân Phạm Nhật Vượng đại diện cho tinh thần dám nghĩ lớn, dám làm khác để đưa Việt Nam ra thế giới, thì bà Thái Hương là biểu tượng của dám làm đúng, dám giữ đạo, để làm cho thế giới tôn trọng Việt Nam. Hai hướng đi ấy tưởng khác, nhưng cùng hội tụ ở một điểm: Lòng yêu nước và khát vọng phụng sự dân tộc bằng con đường doanh nghiệp.

Ngày nay, khi Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, điều chúng ta cần không chỉ là thêm những tập đoàn lớn, mà là thêm những doanh nhân dân tộc lớn, những người có tâm, có tầm và có đạo. Họ chính là linh hồn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nơi giá trị kinh tế và giá trị con người hòa quyện làm một.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 26.

- Ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT cho rằng, nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ không thể phát triển bền vững; ông viện dẫn Nghị quyết 68 đã khẳng định vai trò then chốt của các doanh nghiệp nội địa trong giai đoạn mới: "Mỗi lần dân tộc Việt Nam cùng nhau đứng lên, đó là một sức mạnh vô biên" và kêu gọi các doanh nghiệp tiên phong trong đổi mới sáng tạo, đóng vai trò trung tâm của hệ sinh thái kinh tế mang bản sắc Việt. Theo ông, các doanh nghiệp công nghệ như FPT có sứ mệnh và cần phát huy vai trò ra sao trong công cuộc phát triển vào các lĩnh vực cốt lõi sẽ dẫn dắt thế giới trong thời đại ngày nay là "Trí tuệ nhân tạo - Bán dẫn - Xe điện - Chuyển đổi số - Chuyển đổi xanh", để Việt Nam có thể vươn mình "hóa rồng"?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Trong mỗi bước ngoặt của lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn tìm thấy sức mạnh nội sinh của mình. Nếu trong chiến tranh, đó là lòng yêu nước và ý chí đoàn kết; thì trong thời bình hôm nay, sức mạnh ấy chính là trí tuệ và năng lực sáng tạo của người Việt. Như Chủ tịch FPT Trương Gia Bình từng nói: "Mỗi lần dân tộc Việt Nam cùng nhau đứng lên, đó là một sức mạnh vô biên". Nhưng để "đứng lên" trong kỷ nguyên mới, chúng ta không cầm vũ khí, mà cầm trí tuệ, không mở rộng biên giới lãnh thổ, mà mở rộng biên giới công nghệ.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 27.

Nghị quyết 68 đã khẳng định vai trò then chốt của khu vực kinh tế tư nhân như một trong những động lực quan trọng nhất của phát triển quốc gia. Đó không chỉ là thông điệp kinh tế, mà còn là tuyên ngôn về khát vọng tự cường dân tộc. Nếu trong quá khứ, chúng ta dựa nhiều vào vốn và công nghệ nước ngoài, thì nay con đường phát triển bền vững chỉ có thể được kiến tạo bởi doanh nghiệp nội địa, những người hiểu sâu nhất về con người, văn hóa và thị trường Việt Nam.

Trong hành trình này, các doanh nghiệp công nghệ như FPT, Viettel, Vingroup, Phenikaa, MISA, TMA… giữ vai trò tiên phong. Trong thời đại mà thế giới được dẫn dắt bởi Trí tuệ nhân tạo - Bán dẫn - Xe điện - Chuyển đổi số - Chuyển đổi xanh, họ không chỉ là người tham gia thị trường, mà là người viết lại vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Doanh nghiệp công nghệ Việt Nam có sứ mệnh kép. Một mặt, họ là đội quân tiên phong của nền kinh tế tri thức, nơi giá trị quốc gia không còn được đo bằng tài nguyên thiên nhiên, mà bằng hàm lượng chất xám và sáng tạo. Mặt khác, họ là hạt nhân của chủ quyền công nghệ quốc gia - bảo đảm rằng Việt Nam có thể tự chủ trong những lĩnh vực sống còn của thế kỷ XXI.

Để thực hiện sứ mệnh đó, các doanh nghiệp cần tập trung vào bốn hướng chủ lực: Làm chủ công nghệ lõi trong AI, bán dẫn, dữ liệu lớn, an ninh mạng, năng lượng mới; Phát triển nền tảng số mở để hàng trăm nghìn doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể cùng tham gia vào hệ sinh thái sáng tạo; Đầu tư cho tri thức Việt, xây dựng đại học doanh nghiệp và chương trình đào tạo kỹ năng số cho thế hệ trẻ; Hội nhập chủ động, đưa sản phẩm "Made by Vietnam" vươn ra thế giới, thay vì chỉ "Made in Vietnam". Đó chính là con đường chuyển hóa Việt Nam từ quốc gia gia công sang quốc gia sáng tạo.

Làm sao để khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ cao, đảm nhận sứ mệnh dẫn dắt tăng trưởng, đưa khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam trở thành động lực chính cho khát vọng Việt Nam hùng cường?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Để khu vực tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ, thật sự dẫn dắt tăng trưởng, Việt Nam cần ba đột phá thể chế lớn.

Thứ nhất là thể chế khuyến khích rủi ro sáng tạo. Phải coi đổi mới là quyền, không phải xin phép. Khi doanh nghiệp dám đầu tư vào công nghệ mới, Nhà nước phải là người bảo trợ, chứ không phải người xét duyệt. Chỉ khi không còn sợ sai, người ta mới dám làm điều lớn.

Thứ hai là thể chế tài chính cho đổi mới sáng tạo. Việt Nam cần có các quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa, ưu đãi thuế mạnh cho R&D và cho phép khấu trừ chi phí công nghệ ở mức cạnh tranh toàn cầu. Không thể kỳ vọng có "Thung lũng Silicon Việt Nam" nếu người làm công nghệ phải vay vốn với lãi suất như làm bất động sản.

Thứ ba là thể chế dữ liệu và nhân lực. Dữ liệu là "dầu mỏ mới" của thế kỷ XXI, còn nhân lực là động cơ khai thác nó. Cần mở dữ liệu công, khuyến khích liên kết công - tư trong giáo dục và đào tạo, để hình thành một lực lượng kỹ sư, chuyên gia, nhà sáng tạo Việt quy mô toàn cầu.

Khi trí tuệ Việt được giải phóng và doanh nghiệp tư nhân được tin cậy, Việt Nam hoàn toàn có thể vươn mình hóa rồng bằng sức mạnh của chính mình. Chúng ta có lợi thế dân số trẻ, khả năng thích ứng nhanh và tinh thần dân tộc mạnh mẽ, đó chính là nguồn năng lượng của đổi mới sáng tạo.

Nếu Nhà nước kiến tạo môi trường minh bạch, pháp quyền vững chắc, còn doanh nghiệp tư nhân tiên phong trong công nghệ, thì Việt Nam có thể chuyển từ "quốc gia đi sau để học" sang "quốc gia đi cùng để sáng tạo". Và khi đó, "Make in Vietnam" sẽ không còn là khẩu hiệu, mà là tuyên ngôn của một dân tộc sáng tạo, tự chủ và hùng cường.

Phát triển bền vững trong thời đại mới chính là sự kết hợp hài hòa giữa khát vọng dân tộc và trí tuệ nhân loại. Những doanh nhân như Trương Gia Bình, Phạm Nhật Vượng, Vũ Văn Tiền, Thái Hương, cùng thế hệ doanh nhân trẻ đang trỗi dậy, chính là đội quân Diên Hồng của kỷ nguyên số, không hô vang "Đánh!", mà hô vang "Làm!". Làm công nghệ, làm sản phẩm Việt, làm thương hiệu toàn cầu.

Và khi tinh thần ấy lan tỏa, Việt Nam sẽ không chỉ "hóa rồng", mà còn trở thành con rồng mang bản sắc riêng, con rồng của trí tuệ, sáng tạo và nhân văn.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 28.

Doanh nhân Vũ Văn Tiền, Chủ tịch Tập đoàn Geleximco chia sẻ rằng, ở tuổi gần 70, ông vẫn "khởi nghiệp cả đời vì khát khao cống hiến cho đất nước", xuất phát từ tinh thần dân tộc và ý thức trách nhiệm với Tổ quốc. Ông Vũ Văn Tiền đồng thời trăn trở về việc Việt Nam hiện chưa có nhiều doanh nghiệp tư nhân mang trong mình khát vọng quốc gia, dân tộc mạnh mẽ như các tập đoàn lớn ở những nước phát triển. Ông cảm nhận và đánh giá ra sao về tinh thần này của doanh nhân Vũ Văn Tiền và Việt Nam cần làm gì để vun đắp một thế hệ doanh nhân Việt vừa tài năng, bản lĩnh vừa thấm nhuần lòng yêu nước và tinh thần phục vụ dân tộc? Nhà nước có nên chọn lọc và hỗ trợ hình thành những "đội quân chủ lực", các doanh nghiệp dẫn đầu trong những ngành chiến lược để họ đủ sức cạnh tranh quốc tế và gánh vác trọng trách đưa kinh tế nước nhà thăng hoa hay không?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tinh thần "khởi nghiệp cả đời vì đất nước" mà doanh nhân Vũ Văn Tiền chia sẻ thực sự chạm đến trái tim của mọi người Việt Nam.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 29.

Đó là tinh thần dân tộc trong hình hài của một doanh nhân hiện đại, không phô trương, không ồn ào, nhưng bền bỉ và kiên định như mạch nguồn chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc. Ở tuổi gần 70, ông Vũ Văn Tiền vẫn miệt mài tìm hướng đầu tư mới, vẫn nói đến khát vọng cống hiến cho Tổ quốc, điều đó cho thấy doanh nhân Việt Nam không chỉ làm giàu cho mình, mà còn muốn làm giàu cho đất nước. Và chính ở điểm ấy, doanh nhân dân tộc khác biệt với doanh nhân thuần túy thương mại: Họ coi kinh doanh là sứ mệnh, không chỉ là nghề nghiệp.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 30.

Tuy nhiên, nỗi trăn trở của ông Vũ Văn Tiền cũng là một cảnh báo đáng suy ngẫm: Việt Nam vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp tư nhân mang trong mình khát vọng quốc gia rõ rệt, những tập đoàn vừa có năng lực toàn cầu, vừa có tâm thế gánh vác sứ mệnh dân tộc như Samsung của Hàn Quốc, Toyota của Nhật Bản, hay Tata của Ấn Độ. Muốn có được những "doanh nghiệp quốc gia" như vậy, chúng ta cần một tầm nhìn mới về vai trò của doanh nhân trong tiến trình phát triển quốc gia.

Trước hết, cần khẳng định rằng doanh nhân là một lực lượng chiến lược của dân tộc, chứ không phải chỉ là những cá nhân thành đạt. Họ là người tạo ra của cải, việc làm, công nghệ và sức cạnh tranh quốc gia. Khi doanh nhân được tin tưởng và tôn vinh, thì toàn xã hội sẽ coi việc làm kinh tế, làm giàu chính đáng, phụng sự bằng sáng tạo là một lý tưởng đẹp, chứ không phải mục tiêu cá nhân.

Để vun đắp một thế hệ doanh nhân Việt Nam vừa tài năng, bản lĩnh, vừa thấm nhuần lòng yêu nước và tinh thần phụng sự dân tộc, cần hội đủ ba điều kiện nền tảng:

Một là, phải xây dựng văn hóa doanh nhân dân tộc, nơi lòng yêu nước, tinh thần tự cường và đạo đức kinh doanh trở thành gien di truyền của doanh giới Việt Nam. Mỗi doanh nhân phải coi doanh nghiệp của mình là một tế bào của quốc gia, và sự thịnh vượng của doanh nghiệp phải gắn với sự thịnh vượng của Tổ quốc. Như vậy, yêu nước không chỉ nằm trong trái tim, mà còn được thể hiện qua năng lực tổ chức, sáng tạo và đóng góp thực chất cho xã hội.

Hai là, cần có chính sách quốc gia về phát triển doanh nhân. Nhà nước cần chủ động chọn lọc, hỗ trợ và bảo vệ những doanh nghiệp có tiềm năng trở thành "đội quân chủ lực" trong các lĩnh vực chiến lược, từ năng lượng, công nghệ, hạ tầng, logistics, đến nông nghiệp công nghệ cao. Đó không phải là "ưu ái", mà là đầu tư có chọn lọc cho tương lai của đất nước. Mọi quốc gia thành công đều từng làm điều này: Nhật Bản có keiretsu, Hàn Quốc có chaebol, Singapore có temasek, những hạt nhân doanh nghiệp quốc gia được nhà nước trao sứ mệnh toàn cầu. Việt Nam cũng cần một thế hệ doanh nghiệp đầu tàu, vừa có năng lực công nghệ, vừa có khát vọng phụng sự đất nước, để gánh vác trọng trách đưa nền kinh tế tiến lên.

Ba là, phải tạo môi trường chính trị - pháp lý ổn định, minh bạch và công bằng, để doanh nhân có thể đầu tư dài hạn mà không sợ rủi ro thể chế. Chỉ khi Nhà nước thực sự là đối tác đồng hành, chứ không phải là "người cầm cân nảy mực" từ trên xuống, thì tinh thần dấn thân của doanh nhân mới được khơi dậy mạnh mẽ.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 31.

- Theo ông, liệu có một "điểm bùng nổ" nào sắp đến, nơi những doanh nhân như ông Phạm Nhật Vượng, bà Thái Hương, ông Trương Gia Bình, ông Vũ Văn Tiền… sẽ cùng thắp lên một thời kỳ mới của doanh nghiệp dân tộc Việt Nam?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi tin rằng, một "điểm bùng nổ" của tinh thần doanh nghiệp dân tộc Việt Nam đang đến rất gần. Đó là khi những ngọn lửa tiên phong, như Phạm Nhật Vượng, Vũ Văn Tiền, Trương Gia Bình, Thái Hương hòa cùng nhau thành một dòng chảy mới của doanh nghiệp Việt Nam, kết nối khát vọng cá nhân thành khát vọng quốc gia. Khi lòng yêu nước gặp khát vọng sáng tạo, khi trí tuệ Việt gặp niềm tin Việt, sẽ hình thành một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của doanh nghiệp dân tộc Việt Nam.

Đó không còn là thời của những người "đi tìm cơ hội", mà là thời của những người đi kiến tạo vận mệnh. Những người mang trong tim mình lời hịch mới của thời đại: "Không có gì quý hơn khát vọng vươn mình của dân tộc". Và khi khát vọng ấy được thắp lên trong hàng triệu doanh nhân Việt, thì tiếng "Đánh!" của Diên Hồng năm xưa sẽ được vang lại - không phải trên chiến địa, mà trên mặt trận phát triển, nơi cả dân tộc cùng hô vang: "Làm giàu cho đất nước, bằng trí tuệ, bằng sáng tạo, bằng trái tim Việt Nam".

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 32.

- Nghị quyết 68 đề ra tầm nhìn đến năm 2045, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến mốc đó sẽ có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp, đóng góp trên 60% GDP cả nước. Đây cũng là mục tiêu trùng với mốc 100 năm lập quốc, khi Việt Nam kỳ vọng trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Theo ông, những thách thức lớn nhất nào đang đặt ra trên con đường hiện thực hóa khát vọng Việt Nam thịnh vượng vào năm 2045? Đặc biệt, khu vực doanh nghiệp tư nhân cần chuẩn bị ra sao về năng lực cạnh tranh, khả năng thích nghi với công nghệ mới và vốn con người để có thể bứt phá và hoàn thành vai trò đầu tàu đạt các mục tiêu chiến lược ấy?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Nghị quyết 68 đã đặt ra một tầm nhìn táo bạo: Đến năm 2045, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam phải trở thành trụ cột dẫn dắt nền kinh tế, với ít nhất 3 triệu doanh nghiệp đóng góp hơn 60% GDP quốc gia. Đây không chỉ là một con số, mà là một lời hẹn lịch sử, hẹn rằng vào dịp kỷ niệm 100 năm lập quốc, Việt Nam sẽ không còn là nước đang phát triển, mà đã trở thành một quốc gia hùng cường, thu nhập cao, có vị thế xứng đáng trên bản đồ thế giới.

Để hiện thực hóa khát vọng ấy, Việt Nam đang đứng trước ba thách thức lớn nhất.

Thách thức thứ nhất là "bẫy năng suất" - sự trì trệ trong nâng cao chất lượng tăng trưởng. Sau gần 40 năm Đổi mới, chúng ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, nhưng năng suất lao động vẫn thấp hơn trung bình ASEAN khoảng 40%. Nếu không nhanh chóng chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, công nghệ và vốn con người, Việt Nam có thể rơi vào "bẫy thu nhập trung bình" ngay trước ngưỡng cửa 2045. Điều này đòi hỏi khu vực tư nhân phải tái cấu trúc mạnh mẽ, đầu tư vào nghiên cứu, tự động hóa, chuyển đổi số, và quản trị theo chuẩn toàn cầu. Doanh nghiệp không thể chỉ chạy theo thị phần, mà phải xây dựng năng lực lõi, sở hữu trí tuệ, thương hiệu và dữ liệu riêng, những "tài sản vô hình" mới của thế kỷ XXI.

Thách thức thứ hai là "bẫy thể chế", khi hệ thống pháp lý và bộ máy quản lý chưa bắt kịp với nhịp phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại. Một môi trường kinh doanh thông thoáng không thể chỉ dừng ở việc cắt giảm thủ tục hành chính, mà phải thực sự trao quyền, giảm sợ hãi, và khơi thông nguồn lực xã hội. Nếu doanh nhân vẫn phải "xin - cho" để được kinh doanh, nếu đổi mới sáng tạo vẫn bị trói bởi hàng rào thủ tục, thì khát vọng 2045 sẽ chỉ nằm trên giấy. Do đó, Nhà nước cần chuyển hẳn từ "quản lý - kiểm soát" sang "kiến tạo - phục vụ", tạo niềm tin để doanh nghiệp dám đầu tư dài hạn. Một nền kinh tế chỉ mạnh khi doanh nhân của nó được tin tưởng và được tự do hành động trong khuôn khổ pháp quyền vững chắc.

Thách thức thứ ba là "bẫy nhân lực", khi chất lượng con người chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế số và xanh. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam hiện mới hơn 27%, trong khi kinh tế tri thức đòi hỏi ít nhất gấp đôi. Nếu không đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục STEM, kỹ năng số, quản trị và ngoại ngữ, chúng ta sẽ không có đủ lực lượng để vận hành những ngành mũi nhọn như bán dẫn, AI, xe điện hay năng lượng tái tạo. Điều đó không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, mà còn là sứ mệnh của doanh nghiệp tư nhân, những người phải chủ động đào tạo, ươm mầm và giữ chân nhân tài. Trong thế kỷ XXI, nguồn vốn quan trọng nhất không còn nằm trong ngân hàng, mà nằm trong bộ não con người.

Trước những thách thức đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân cần chuẩn bị không chỉ về năng lực cạnh tranh, mà cả về tầm nhìn phát triển quốc gia.

Phải coi việc nâng cao năng suất, đầu tư công nghệ, giảm phát thải, bảo vệ môi trường, và nâng tầm người lao động, không phải là chi phí, mà là con đường sống còn. Chỉ khi từng doanh nghiệp mang trong mình ý thức dân tộc và tinh thần tiên phong, nền kinh tế mới có thể tích tụ đủ lực để bứt phá.

Khu vực doanh nghiệp tư nhân cần chuẩn bị không chỉ về năng lực cạnh tranh, mà cả về tầm nhìn phát triển quốc gia. Điều cốt lõi là phải hình thành một "tầng lớp doanh nhân dân tộc", những người không chỉ làm kinh tế, mà còn làm công việc quốc gia.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 33.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Điều cốt lõi là phải hình thành một "tầng lớp doanh nhân dân tộc", những người không chỉ làm kinh tế, mà còn làm công việc quốc gia. Họ hiểu rằng khát vọng của doanh nghiệp không thể tách rời khát vọng Việt Nam và thành công của họ chỉ thật sự trọn vẹn khi góp phần làm đất nước phồn vinh.

Đến năm 2045, khi nhìn lại chặng đường trăm năm dựng nước và đổi mới, chúng ta muốn thế giới nhớ đến Việt Nam không chỉ như một nền kinh tế năng động, mà là một quốc gia của trí tuệ, sáng tạo và nhân văn.

Muốn vậy, khu vực tư nhân với 3 triệu doanh nghiệp phải là nguồn lực trung tâm của thời đại mới, kết hợp giữa hiệu quả kinh tế, trách nhiệm xã hội và tinh thần dân tộc. Chỉ khi ấy, Việt Nam mới có thể bước qua mọi "bẫy phát triển", vươn mình trở thành một quốc gia hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc, như khát vọng mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã khơi dậy: "Muôn triệu người như một, đoàn kết chung tay vì tương lai đất nước".

- Ở các quốc gia khu vực Đông Bắc Á (như Nhật Bản, Hàn Quốc), thành công kinh tế gắn liền với sự trỗi dậy của những tập đoàn tư nhân khổng lồ có tầm nhìn chiến lược dài hạn. Chính phủ Hàn Quốc từng giao cho doanh nghiệp tư nhân trách nhiệm trở thành "tập đoàn quốc gia" và có chính sách hỗ trợ tương ứng; ngay từ đầu họ đã xác định những doanh nghiệp này phải vươn tầm quốc gia, nếu doanh nghiệp nao núng sẽ bị thay thế. Theo ông, các doanh nghiệp Việt Nam cần thay đổi gì về tư duy chiến lược và tầm nhìn dài hạn để vươn lên ngang tầm khu vực và thế giới? Chúng ta có nên tập trung phát triển một số ngành mũi nhọn với những doanh nghiệp "đại bàng" dẫn dắt? Và trong bối cảnh thị trường toàn cầu biến động, làm sao để doanh nghiệp Việt giữ được bản sắc dân tộc đồng thời hội nhập sâu rộng, xây dựng thương hiệu toàn cầu thành công?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Kinh nghiệm của các quốc gia Đông Bắc Á cho thấy, sức mạnh kinh tế của một dân tộc không chỉ đến từ chính phủ mạnh, mà còn đến từ những doanh nghiệp có tầm nhìn dài hạn và bản lĩnh đi đầu. Nhật Bản có các tập đoàn keiretsu như Toyota, Mitsubishi, Sumitomo; Hàn Quốc có các chaebol như Samsung, Hyundai, LG. Họ thành công vì đã hình thành được liên minh chiến lược giữa Nhà nước kiến tạo và doanh nghiệp tiên phong, nơi mỗi bên đều tin tưởng và cùng gánh vác sứ mệnh phát triển quốc gia.

Ngay từ đầu, Chính phủ Hàn Quốc đã giao cho các tập đoàn tư nhân vai trò "doanh nghiệp quốc gia" - những đầu tàu mang trọng trách phải vươn ra thế giới. Ai nao núng, ai trì trệ, sẽ bị thay thế. Đó chính là kỷ luật của sự phát triển: Không chỉ khích lệ khát vọng, mà còn rèn luyện năng lực để hiện thực hóa khát vọng ấy.

Việt Nam hôm nay cũng đang ở một bước ngoặt tương tự. Sau bốn thập niên Đổi mới, chúng ta đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân năng động, sáng tạo, nhưng phần lớn vẫn thiếu tầm nhìn dài hạn, chiến lược công nghệ, và hệ sinh thái liên kết chuỗi. Muốn vươn lên ngang tầm khu vực, doanh nghiệp Việt phải chuyển đổi mạnh mẽ tư duy phát triển, từ ngắn hạn sang dài hạn, từ cơ hội sang sứ mệnh, từ "kinh doanh để thành công" sang "kinh doanh để phụng sự".

Muốn vươn lên ngang tầm khu vực, doanh nghiệp Việt phải chuyển đổi mạnh mẽ tư duy phát triển, từ ngắn hạn sang dài hạn, từ cơ hội sang sứ mệnh, từ "kinh doanh để thành công" sang "kinh doanh để phụng sự".
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 34.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Cụ thể, cần chuyển mình theo bốn hướng then chốt:

Thứ nhất, tư duy dài hạn, coi mỗi dự án không chỉ là cơ hội kiếm lời, mà là bước đi chiến lược định hình tương lai quốc gia. Doanh nghiệp phải đủ kiên nhẫn để theo đuổi chu kỳ 10 - 20 năm, chấp nhận thất bại ngắn hạn để đạt thành công bền vững.

Thứ hai, đào sâu năng lực lõi, làm chủ công nghệ, quy trình, dữ liệu và thương hiệu - thay vì mở rộng dàn trải theo chiều rộng.

Thứ ba, phát triển hệ sinh thái, kết nối doanh nghiệp nhỏ và vừa, viện nghiên cứu, trường đại học, và các đối tác toàn cầu, để hình thành năng lực cộng hưởng.

Thứ tư, chuyển từ "mua công nghệ" sang "đồng sáng tạo công nghệ", trở thành một phần của chuỗi giá trị toàn cầu chứ không chỉ là nhà cung ứng.

Từ góc nhìn quốc gia, Việt Nam hoàn toàn nên lựa chọn một số ngành mũi nhọn để tập trung nguồn lực và hình thành những "doanh nghiệp đại bàng" thực thụ. Đó có thể là công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo, bán dẫn và năng lượng sạch, xe điện và pin, tài chính, logistics và nông nghiệp công nghệ cao. Những lĩnh vực này vừa gắn với xu hướng phát triển toàn cầu, vừa có lợi thế tự nhiên, nhân lực và thị trường nội địa đủ lớn để hình thành sức bật.

Nhưng "đại bàng Việt" không thể bay bằng gió ưu đãi, mà phải bay bằng hai cánh: Cạnh tranh và kỷ luật. Chính sách hỗ trợ phải có điều kiện, có thời hạn, và gắn chặt với cam kết cụ thể: Năng suất, tỉ lệ nội địa hóa, năng lực công nghệ và chuẩn ESG quốc tế. Doanh nghiệp nào tiên phong nhưng không đạt mục tiêu thì phải nhường chỗ cho doanh nghiệp khác, đó chính là kỷ luật thị trường, là phép thử của một quốc gia phát triển thực sự.

Song song với đó, doanh nghiệp Việt Nam khi vươn ra toàn cầu cần luôn giữ bản sắc dân tộc như ngọn la bàn giá trị. Trong thời đại hội nhập, bản sắc chính là lợi thế cạnh tranh bền vững nhất. Thương hiệu Việt cần được định vị không chỉ bằng sản phẩm tốt, mà bằng câu chuyện văn hóa và đạo lý kinh doanh tử tế. Từ "sữa vì tầm vóc Việt", "xe điện vì tương lai xanh của hành tinh", đến "công nghệ Việt - giải pháp tin cậy cho thế giới", mỗi thương hiệu Việt phải mang trong mình một sứ mệnh nhân văn. Đó là cách để vừa hội nhập sâu, vừa tỏa sáng bằng giá trị riêng biệt của trí tuệ và tâm hồn Việt Nam.

Tầm nhìn dài hạn cũng đòi hỏi doanh nghiệp biết xây dựng năng lực quản trị theo chuẩn toàn cầu. Phải có hội đồng độc lập, báo cáo minh bạch, quản trị rủi ro, bảo đảm tuân thủ và bền vững (ESG). Khi niềm tin trở thành tài sản lớn nhất, doanh nghiệp Việt sẽ có "giấy thông hành" để bước ra thế giới với tư thế ngang hàng, không phải đi tìm sự chấp thuận, mà mang đến giải pháp và tri thức Việt Nam cho nhân loại.

Kinh nghiệm Đông Bắc Á chứng minh: Mọi quốc gia cất cánh đều có những doanh nghiệp dám mang giấc mơ dân tộc trong trái tim và tầm nhìn toàn cầu trong trí tuệ. Việt Nam cũng đang trong hành trình đó.

Khi doanh nghiệp Việt dám nghĩ xa, dám đầu tư lớn, dám đi đầu trong những lĩnh vực mới của thế kỷ XXI và khi Nhà nước thật sự trở thành người đồng hành kiến tạo môi trường công bằng, ổn định, khuyến khích sáng tạo, thì những "đại bàng Việt" sẽ không chỉ cất cánh, mà còn bay theo quỹ đạo riêng - quỹ đạo của trí tuệ, nhân bản và khát vọng dân tộc.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 35.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

- Sức mạnh mềm của một quốc gia phần nào được tạo nên bởi sức hấp dẫn của mô hình phát triển, văn hóa và thương hiệu doanh nghiệp của quốc gia đó. Thực tế, mỗi doanh nghiệp thành công trên trường quốc tế có thể trở thành "đại sứ văn hóa" quảng bá đất nước, con người Việt Nam ra thế giới, lan tỏa hình ảnh một Việt Nam năng động, đáng tin cậy. Ông nhìn nhận vai trò của những thương hiệu Việt vươn ra toàn cầu đối với vị thế và uy tín quốc gia như thế nào?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Trong thế kỷ XXI, sức mạnh mềm của một quốc gia không còn được đo bằng quy mô lãnh thổ hay dân số, mà được đo bằng sức hấp dẫn của mô hình phát triển, văn hóa và thương hiệu doanh nghiệp. Một đất nước có thể nhỏ về diện tích, nhưng nếu có những doanh nghiệp toàn cầu, những thương hiệu được tin cậy và một hình ảnh quốc gia truyền cảm hứng, thì quốc gia đó vẫn có tiếng nói lớn trong trật tự thế giới.

Chính vì vậy, doanh nghiệp ngày nay không chỉ là tác nhân kinh tế, mà còn là "đại sứ văn hóa" của đất nước mình.

Khi Viettel phủ sóng ở Châu Phi và Châu Mỹ Latin, thế giới nhìn thấy một Việt Nam sáng tạo, bền bỉ và dám chinh phục. Khi Vinamilk trở thành thương hiệu sữa hàng đầu Đông Nam Á, họ đang nói với thế giới rằng Việt Nam có thể làm ra những sản phẩm chất lượng cao, chuẩn mực quốc tế, với trái tim nhân ái. Khi Vingroup bước vào lĩnh vực xe điện toàn cầu, đó là lời khẳng định rằng Việt Nam đủ tự tin tham gia cuộc chơi công nghệ lớn nhất của nhân loại. Khi TH mang triết lý "sạch từ tâm" ra thế giới, đó là cách Việt Nam lan tỏa đạo lý kinh doanh tử tế và văn hóa nhân bản. Và khi FPT trở thành đối tác công nghệ của hàng loạt tập đoàn Fortune 500, thì hình ảnh Việt Nam được gắn liền với trí tuệ, kỷ luật và sự tin cậy.

Mỗi doanh nghiệp thành công như thế là một cánh tay nối dài của thương hiệu quốc gia. Họ quảng bá đất nước không bằng lời nói, mà bằng hành động, sản phẩm và uy tín. Chính họ đang làm cho thế giới hiểu rằng: Việt Nam không chỉ là điểm đến của đầu tư, mà là đối tác của sáng tạo, là quốc gia của những con người biết ước mơ và hành động.

Việt Nam cần làm gì để khuyến khích nhiều doanh nghiệp tham gia xây dựng thương hiệu quốc gia, qua đó tăng cường quyền lực mềm và tiếng nói ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Sức mạnh mềm không thể hình thành tự phát; nó cần được định hình bằng tầm nhìn quốc gia và cơ chế khuyến khích cụ thể.

Việt Nam cần ba bước đi để xây dựng chiến lược thương hiệu quốc gia toàn diện, trong đó doanh nghiệp là hạt nhân.

Thứ nhất, cần xác định rõ "định vị thương hiệu quốc gia Việt Nam", chúng ta muốn thế giới nhớ đến Việt Nam như thế nào? Một quốc gia sáng tạo, đáng tin cậy, năng động và nhân văn? Khi định vị rõ ràng, mọi doanh nghiệp sẽ biết cách kể câu chuyện của mình hài hòa với câu chuyện của đất nước.

Thứ hai, cần chính sách tôn vinh và hỗ trợ thương hiệu Việt vươn ra quốc tế. Những doanh nghiệp đạt chuẩn quốc gia về quản trị, đổi mới sáng tạo, bền vững, đóng góp xã hội… nên được gắn biểu trưng "Vietnam Value" và được ưu tiên trong xúc tiến thương mại, truyền thông, và ngoại giao kinh tế. Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một Chương trình Thương hiệu Quốc gia thế hệ mới, gắn kết ba trụ: Doanh nghiệp - nhà nước - truyền thông, để cùng lan tỏa uy tín Việt Nam ra thế giới.

Thứ ba, cần phát triển ngoại giao doanh nghiệp và ngoại giao văn hóa như hai mũi nhọn song hành. Các đại sứ quán, trung tâm văn hóa, và các tổ chức xúc tiến đầu tư nên trở thành "cửa ngõ mềm" cho doanh nghiệp Việt. Ngược lại, mỗi doanh nhân Việt Nam ra nước ngoài cũng cần ý thức rằng họ đang mang theo hình ảnh của Tổ quốc, một sứ mệnh ngoại giao không bằng lời, mà bằng uy tín và phong cách ứng xử.

Khi thương hiệu doanh nghiệp hòa quyện với thương hiệu quốc gia, một vòng tuần hoàn tích cực sẽ được hình thành: Doanh nghiệp mạnh - quốc gia được tôn trọng - môi trường kinh doanh tốt hơn - doanh nghiệp lại mạnh hơn. Đó là "cộng hưởng giá trị", nơi mỗi sản phẩm "Made by Vietnam" đều chứa đựng niềm tự hào Việt Nam.

Về sâu xa, xây dựng thương hiệu doanh nghiệp chính là xây dựng thương hiệu dân tộc. Một thương hiệu toàn cầu của Việt Nam không chỉ mang giá trị kinh tế, mà còn là tuyên ngôn văn hóa của một dân tộc từng đứng dậy từ gian khó và nay tự tin góp phần định hình thế giới. Khi Việt Nam có hàng chục, hàng trăm thương hiệu được yêu mến và tin cậy, đó chính là lúc sức mạnh mềm của đất nước đạt tới tầm ảnh hưởng mới, âm thầm nhưng sâu sắc, bền vững nhưng lan tỏa.

Điều đẹp nhất là ở chỗ: Sức mạnh ấy không cần phải gồng lên để chứng minh, mà tự nhiên tỏa sáng qua sản phẩm tốt, đạo đức tốt, và khát vọng chân chính. Khi mỗi doanh nghiệp Việt Nam vừa cạnh tranh được toàn cầu, vừa mang theo trái tim Việt, thì chính họ là hiện thân của sức mạnh mềm quốc gia. Và khi điều đó trở thành phổ biến, thế giới sẽ biết đến Việt Nam không chỉ như "một nền kinh tế đang lên", mà như một dân tộc biết kiến tạo niềm tin, biết tôn trọng con người và biết mơ ước cho cả nhân loại.

Tinh thần dân tộc không chỉ thể hiện trong chiến tranh mà còn trong thói quen tiêu dùng và xây dựng thương hiệu thời bình. Qua trường hợp VinFast, ông suy nghĩ ra sao về mối liên hệ giữa lòng tự hào dân tộc và sự lớn mạnh của doanh nghiệp nội địa? Trong bối cảnh hội nhập, làm thế nào để khẩu hiệu "Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt" không chỉ là cuộc vận động, mà còn trở thành động lực thị trường thực sự, giúp doanh nghiệp Việt không ngừng cải tiến chất lượng, xây dựng niềm tin vững chắc với người tiêu dùng trong nước?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tinh thần dân tộc không chỉ thể hiện trên chiến trường, mà còn sống trong những lựa chọn nhỏ bé hàng ngày, từ thói quen tiêu dùng, đến niềm tin vào sản phẩm do chính người Việt làm ra. Nếu trong chiến tranh, lòng yêu nước thể hiện bằng việc "sẵn sàng ra trận", thì trong hòa bình, lòng yêu nước thể hiện bằng việc "tin vào mình, chọn lấy mình, và nâng đỡ nhau cùng vươn lên". Đó là tinh thần dân tộc trong thời bình, một tinh thần kiến tạo.

Trường hợp VinFast là minh chứng sinh động nhất cho mối liên hệ giữa lòng tự hào dân tộc và sự lớn mạnh của doanh nghiệp nội địa. Khi một thương hiệu Việt dám bước ra toàn cầu, dám đối đầu với những tên tuổi hàng đầu thế giới, nó không chỉ bán sản phẩm, mà bán niềm tin rằng người Việt Nam có thể làm được. Và khi người tiêu dùng Việt sẵn sàng lựa chọn, ủng hộ, thậm chí kiên nhẫn cùng thương hiệu Việt trong giai đoạn đầu đầy thử thách, thì đó không chỉ là hành vi tiêu dùng, mà là hành động tiếp sức cho một khát vọng quốc gia.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 36.TS. Nguyễn Sĩ Dũng
VinFast đã không chỉ sản xuất xe điện, họ kích hoạt lòng tự tôn dân tộc bằng công nghệ.

VinFast đã không chỉ sản xuất xe điện, họ kích hoạt lòng tự tôn dân tộc bằng công nghệ. Cứ mỗi chiếc xe Việt lăn bánh trên đường, là một biểu tượng nhỏ của sự tự tin dân tộc được củng cố, rằng Việt Nam không chỉ gia công, mà có thể sáng tạo; không chỉ học hỏi, mà có thể dẫn dắt.

Nhưng để lòng tự hào ấy bền vững, doanh nghiệp phải chứng minh được rằng họ xứng đáng với niềm tin của người Việt. Lòng yêu nước của người tiêu dùng có thể mở cánh cửa đầu tiên, nhưng chỉ chất lượng và sự tử tế mới giữ được cánh cửa ấy luôn mở.

Vì thế, khẩu hiệu "Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt" cần được tái sinh không như một lời vận động, mà như một cơ chế thị trường thực thụ.

Điều đó đòi hỏi hai chiều nỗ lực song hành.

Về phía doanh nghiệp, cần coi lòng yêu nước của người tiêu dùng không phải là đặc quyền, mà là nghĩa vụ để phấn đấu. Thương hiệu Việt chỉ thật sự được tôn vinh khi mang lại trải nghiệm tốt, dịch vụ tận tâm, giá trị vượt trội, và tinh thần trách nhiệm xã hội. Doanh nghiệp Việt phải chiến thắng không phải nhờ sự cảm thông, mà nhờ năng lực, đổi mới, và chữ tín. Khi hàng Việt đạt chuẩn quốc tế, người tiêu dùng sẽ lựa chọn hàng Việt một cách tự nhiên, không cần ai kêu gọi.

Về phía Nhà nước và xã hội, cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chất lượng, sáng tạo và thương hiệu. Các chương trình "Thương hiệu quốc gia", "Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt" nên chuyển hướng từ tuyên truyền sang tạo động lực thực tế: Chính sách thuế và tín dụng cho sản phẩm đạt chuẩn nội địa hóa cao, các sàn thương mại điện tử ưu tiên hiển thị hàng Việt, hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại và khu du lịch giới thiệu sản phẩm Việt như một phần của trải nghiệm văn hóa.

Khi hàng Việt hiện diện với niềm tự hào và chất lượng cao, người Việt sẽ lựa chọn hàng Việt không vì lòng trắc ẩn, mà vì đó là lựa chọn tốt nhất.

Quan trọng hơn, cần hình thành một văn hóa tiêu dùng Việt Nam hiện đại, nơi mỗi người dân hiểu rằng hành động tiêu dùng của mình cũng là hành động kiến tạo quốc gia. Mỗi sản phẩm Việt được mua, mỗi thương hiệu Việt được tin, là thêm một viên gạch đặt vào nền móng của nền kinh tế tự cường. Chỉ khi lòng tự tôn dân tộc gặp khát vọng doanh nhân, khi người tiêu dùng và doanh nghiệp cùng nhìn về một hướng, thì thị trường nội địa mới trở thành bệ phóng vững chắc cho doanh nghiệp Việt vươn ra toàn cầu.

Tự hào dân tộc không phải là khẩu hiệu. Nó là hành động cộng hưởng của cả một dân tộc tin vào chính mình. Và khi lòng tin ấy được chuyển hóa thành thói quen tiêu dùng, thành chuẩn mực văn hóa, thành tinh thần "dùng hàng Việt vì chất lượng Việt", thì đó chính là hình thái cao nhất của sức mạnh mềm dân tộc. Khi ấy, mỗi người tiêu dùng sẽ trở thành một công dân kinh tế, và mỗi thương hiệu Việt, từ VinFast đến TH, từ Viettel đến FPT, sẽ trở thành một sứ giả của niềm tin Việt Nam.

- Sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước là yếu tố quan trọng tạo sức mạnh cộng đồng, đặc biệt khi cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài. Tuy nhiên, có một số chuyên gia nhận xét doanh nghiệp Việt "làm một mình thì tốt, nhưng khi hợp tác với nhau trong các dự án lớn hoặc chiến lược thì còn yếu". Ông có đồng tình với ý kiến này không?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi đồng tình với nhận xét rằng, doanh nghiệp Việt Nam "làm một mình thì tốt, nhưng khi hợp tác thì yếu". Đây là một thực tế đáng suy ngẫm và cũng là điểm nghẽn văn hóa phát triển cần được tháo gỡ nếu chúng ta muốn hình thành một lực lượng doanh nghiệp đủ mạnh để cạnh tranh toàn cầu. Bởi lẽ, trong thời đại của các chuỗi giá trị toàn cầu, một doanh nghiệp đơn lẻ dù giỏi đến đâu cũng khó có thể đứng vững nếu không có hệ sinh thái xung quanh.

Vì sao doanh nghiệp Việt "ngại bắt tay nhau"?

Thứ nhất, di sản văn hóa kinh tế tiểu nông còn đậm. Tư duy "mỗi người một ruộng, ai làm nấy hưởng" khiến nhiều doanh nghiệp quen tự lực, nhưng lại thiếu năng lực hợp tác và chia sẻ. Trong khi đó, tinh thần "cùng làm để cùng thắng" vốn là DNA của doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn chưa trở thành chuẩn mực phổ biến ở Việt Nam. Ta thường giỏi xoay xở trong khó khăn cá nhân, nhưng lại yếu trong việc xây dựng niềm tin tập thể.

Thứ hai, thiếu cơ chế bảo vệ và khuyến khích liên minh công bằng. Doanh nghiệp sợ hợp tác vì lo rủi ro về lợi ích, sở hữu trí tuệ, trách nhiệm pháp lý. Luật pháp chưa có hành lang đủ rõ cho các mô hình liên kết linh hoạt như consortium, joint venture, cluster, hay "liên minh tạm thời cho dự án lớn", vốn rất phổ biến ở các nước phát triển.

Thứ ba, môi trường cạnh tranh nội địa đôi khi chưa lành mạnh. Một số doanh nghiệp còn mang tâm lý "đối thủ là kẻ cản đường", thay vì "đối tác cùng ngành". Thiếu niềm tin chiến lược khiến các liên minh Việt thường "đẹp trên giấy, tan trên thực tế". Trong khi đó, các tập đoàn nước ngoài vào Việt Nam hoạt động theo chuỗi, có hệ sinh thái rõ ràng, hỗ trợ nhau về tài chính, công nghệ, và thị trường.

Trong lịch sử, sức mạnh Việt Nam luôn đến từ sự gắn kết. Hội nghị Diên Hồng năm 1284 là biểu tượng của tinh thần "đồng lòng mà thắng". Trong thời bình hôm nay, "Diên Hồng kinh tế" chính là liên kết doanh nghiệp - hợp tác trong cạnh tranh.

Các tập đoàn Hàn Quốc như Samsung, Hyundai, LG, hay các doanh nghiệp Nhật Bản trong mô hình keiretsu, đều dựa trên hệ thống liên kết dọc và ngang: Doanh nghiệp lớn đầu tàu - doanh nghiệp nhỏ vệ tinh - trung gian hỗ trợ tài chính, công nghệ, logistics. Đó là cách họ cùng tạo ra giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Việt Nam muốn có những "đại bàng" thực thụ thì phải có đàn chim khỏe cùng bay. Mỗi doanh nghiệp lớn cần có hệ sinh thái hàng trăm doanh nghiệp nhỏ đi cùng; và mỗi doanh nghiệp nhỏ cần tìm "tổ chức mẹ" để học hỏi, chia sẻ, cộng hưởng. Khi doanh nghiệp biết liên kết thay vì đơn độc, năng suất toàn nền kinh tế sẽ tăng lên, đó chính là sức mạnh cộng sinh của thời đại mới.

Nhà nước cần làm gì để khuyến khích liên kết doanh nghiệp?

Trước hết, phải định vị lại hợp tác như một giá trị cốt lõi của phát triển. Cần có chính sách khuyến khích các cụm liên kết ngành (industrial cluster), nơi doanh nghiệp cùng chia sẻ hạ tầng, nhân lực, R&D, và dữ liệu. Ví dụ, khu công nghệ cao, khu công nghiệp xanh, khu đổi mới sáng tạo, tất cả phải được thiết kế theo mô hình "liên kết giá trị", chứ không phải "cho thuê đất riêng lẻ".

Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý cho liên minh doanh nghiệp. Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp, và các quy định về liên doanh - hợp tác cần mở ra cơ chế linh hoạt cho liên kết tự nguyện vì mục tiêu chung, bảo đảm minh bạch và niềm tin pháp lý. Nhà nước không nên can thiệp sâu, mà nên đóng vai trò "bà đỡ", tạo hành lang, giảm rủi ro và bảo vệ lợi ích các bên trong hợp tác.

Thứ ba, phát triển "nền tảng dữ liệu kết nối doanh nghiệp Việt". Khi thông tin minh bạch, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng tìm đối tác tin cậy hơn. Cổng dữ liệu quốc gia về năng lực sản xuất, tín nhiệm doanh nghiệp, và cơ chế liên thông hiệp hội ngành nghề có thể giúp ghép nối doanh nghiệp nội địa với nhau một cách tự nhiên, hiệu quả.

Thứ tư, khuyến khích "liên minh công - tư - học thuật". Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp và trường đại học cùng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Những mô hình như "quỹ đồng đầu tư", "trung tâm đổi mới sáng tạo chung" cần được nhân rộng để doanh nghiệp không chỉ liên kết với nhau, mà còn liên kết với tri thức quốc gia.

Liên kết doanh nghiệp không phải để "chia phần", mà để chia sẻ năng lực. Cạnh tranh vẫn là động lực, nhưng phải là cạnh tranh trong cộng sinh. Doanh nghiệp nhỏ cần tin rằng mình có thể phát triển bên cạnh doanh nghiệp lớn; doanh nghiệp lớn cần hiểu rằng sức mạnh của mình phụ thuộc vào hệ sinh thái xung quanh. Đó là tinh thần "win together" - thắng cùng nhau thay vì "win alone".

Một quốc gia chỉ mạnh thật sự khi cộng đồng doanh nghiệp của nó biết cộng tác vì lợi ích chung. Nếu coi phát triển quốc gia là một "bản giao hưởng", thì Nhà nước là nhạc trưởng, còn mỗi doanh nghiệp là một nhạc cụ. Chỉ khi tất cả cùng hòa điệu, giai điệu thịnh vượng mới vang lên trọn vẹn. đó chính là "tinh thần Diên Hồng" của thời đại kinh tế thị trường, không hô vang "Đánh!" như năm xưa, mà cùng nhau hô vang: "Hợp tác để cùng lớn!".

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 37.

Xuyên suốt hơn một thập kỷ qua, chủ trương xây dựng văn hóa kinh doanh và phát triển đội ngũ doanh nhân có tinh thần dân tộc, có văn hóa và trách nhiệm xã hội luôn được nhấn mạnh như một nền tảng cho sự phát triển bền vững. Theo ông, những giá trị văn hóa, đạo đức cốt lõi nào cần được giới doanh nhân Việt đề cao trong giai đoạn hiện nay? Chúng ta cần làm gì để vừa hun đúc tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc trong giới doanh nhân, vừa xây dựng được văn hóa kinh doanh hiện đại với các chuẩn mực như liêm chính, minh bạch, tôn trọng khách hàng và cạnh tranh lành mạnh?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi cho rằng, văn hóa và đạo đức kinh doanh chính là linh hồn của nền kinh tế thị trường có bản sắc Việt Nam. Nếu thể chế là khung xương, thì văn hóa là máu chảy trong từng mạch kinh tế, giúp thị trường không chỉ vận hành hiệu quả, mà còn vận hành đúng đắn. Bởi một quốc gia muốn phát triển bền vững, thì phải có những doanh nhân không chỉ giỏi kiếm tiền, mà còn biết làm điều tử tế. Có bốn vấn đề chúng ta cùng suy ngẫm:

Một là, nền tảng tinh thần dân tộc và khát vọng phụng sự.

Từ thời Bạch Thái Bưởi, Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn Hà… tinh thần dân tộc đã là cốt lõi đạo đức của doanh nhân Việt. Họ làm kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận, mà còn vì một khát vọng lớn hơn, khẳng định trí tuệ, danh dự và năng lực của người Việt. Ngày nay, tinh thần ấy vẫn cần được hun đúc và làm mới: Làm giàu cho bản thân phải song hành với làm mạnh cho đất nước. Đó chính là "chủ nghĩa yêu nước trong thời bình", yêu nước bằng cách kiến tạo của cải, tạo việc làm, và đóng góp tri thức cho cộng đồng.

Hai là, hệ giá trị cốt lõi của văn hóa doanh nhân Việt Nam hiện đại.

Trong giai đoạn mới, tôi cho rằng có 5 giá trị cốt lõi cần được đề cao và lan tỏa trong giới doanh nhân Việt Nam:

Liêm chính - nền tảng của niềm tin. Không có niềm tin thì không có thị trường. Liêm chính giúp doanh nhân giữ được danh dự, giúp xã hội tin vào doanh nghiệp, và giúp quốc gia có môi trường kinh doanh minh bạch, giảm chi phí không chính thức.

Trách nhiệm - đối với xã hội và tương lai. Doanh nhân không chỉ chịu trách nhiệm với cổ đông, mà còn với người lao động, môi trường, và thế hệ mai sau. Mỗi quyết định kinh doanh phải đặt trong câu hỏi: "Điều này có làm xã hội tốt hơn không?".

Minh bạch - tiêu chuẩn của thời đại số. Minh bạch không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà là chuẩn mực đạo đức. Một nền kinh tế minh bạch là nền kinh tế có khả năng thu hút niềm tin, niềm tin từ người tiêu dùng, nhà đầu tư và cả cộng đồng quốc tế.

Tôn trọng khách hàng - coi khách hàng là bạn đồng hành. Không có khách hàng trung thành, không thể có thương hiệu bền vững. Tôn trọng khách hàng không chỉ bằng chất lượng sản phẩm, mà bằng sự trung thực, công bằng và cảm xúc nhân văn trong từng trải nghiệm.

Cạnh tranh lành mạnh - động lực của sáng tạo. Cạnh tranh công bằng giúp doanh nghiệp trưởng thành, xã hội phát triển, và thị trường ổn định. Ngược lại, cạnh tranh không lành mạnh thông qua "chạy chọt", "bôi trơn", "phá giá" là mầm mống làm suy yếu nền kinh tế.

Ba là, làm sao để vun đắp văn hóa và đạo đức kinh doanh?

Thứ nhất, cần coi xây dựng văn hóa kinh doanh là một chính sách quốc gia, chứ không chỉ là phong trào. Giống như Singapore có "Integrity Movement", Nhật Bản có "Keiei Dōtoku" (đạo đức kinh doanh), Việt Nam hoàn toàn có thể khởi xướng "Chương trình Quốc gia về Văn hóa Doanh nhân", nhằm chuẩn hóa các giá trị, lan tỏa các điển hình và đưa văn hóa kinh doanh vào giáo dục, đào tạo doanh nhân.

Thứ hai, cần thể chế hóa và đo lường đạo đức kinh doanh. Các tiêu chí như ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị), báo cáo bền vững, hay xếp hạng minh bạch nên trở thành điều kiện tiên quyết trong đấu thầu, cấp phép, và hỗ trợ chính sách. Văn hóa chỉ bền khi được "đo" và "trả thưởng" công bằng.

Thứ ba, phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, VCCI và truyền thông trong lan tỏa hình ảnh doanh nhân tử tế, dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm. Khi xã hội tôn vinh người làm ăn chân chính và phê phán người trục lợi, thì đạo đức sẽ trở thành tài sản thật sự có giá trị.

Thứ tư, đề cao giáo dục tinh thần dân tộc trong giới doanh nhân. Cần nhắc nhớ họ rằng "doanh nhân là chiến sĩ của thời bình", chiến đấu bằng trí tuệ, bản lĩnh, và lòng tự trọng dân tộc. Càng toàn cầu hóa, càng phải giữ bản sắc, bởi mất bản sắc là mất lợi thế cạnh tranh bền vững nhất.

Bốn là, văn hóa kinh doanh - chiếc gốc của cây thịnh vượng.

Văn hóa kinh doanh không phải là phần "phụ họa" cho thành công, mà là nguồn gốc quyết định độ bền của cây thịnh vượng. Những doanh nghiệp Việt tồn tại qua nhiều thế hệ, như Biti's, Minh Long, FPT, TH đều dựa vào văn hóa liêm chính, nhân bản và tinh thần học hỏi không ngừng. Còn những doanh nghiệp thiếu văn hóa, dù có thể giàu nhanh, thường cũng lụi tàn nhanh. Do đó, đạo đức không làm chậm tốc độ phát triển, mà giúp tốc độ ấy bền vững hơn.

Những doanh nghiệp Việt tồn tại qua nhiều thế hệ, như Biti's, Minh Long, FPT, TH đều dựa vào văn hóa liêm chính, nhân bản và tinh thần học hỏi không ngừng.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 38.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Suy cho cùng, xây dựng văn hóa doanh nhân là xây dựng đạo đức cho thị trường. Một khi các doanh nhân đều thấm nhuần tinh thần dân tộc và các giá trị văn hóa hiện đại, họ sẽ không chỉ tạo ra của cải, mà còn tạo ra niềm tin - nguồn vốn quý nhất của một quốc gia đang đi lên. Và chính niềm tin ấy sẽ trở thành "sức mạnh mềm" của nền kinh tế Việt Nam, nơi đạo đức và hiệu quả, truyền thống và hiện đại cùng hòa quyện để kiến tạo tương lai.

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan lúc sinh thời từng thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế của doanh nhân Việt Nam: Có tài xoay xở nhưng thiếu bài bản, hay hứa hẹn nhiều nhưng thực hiện kém hiệu quả, giỏi thích nghi nhưng ít sáng tạo, chú trọng hình thức mà đôi khi chưa quan tâm thỏa đáng đến thực chất công việc. Ông đánh giá thế nào về những "căn bệnh" cố hữu này trong văn hóa kinh doanh Việt?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Những nhận xét rất thẳng thắn của cố Phó Thủ tướng Vũ Khoan về "căn bệnh" trong văn hóa kinh doanh Việt Nam đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó không chỉ là lời phê bình, mà là một tấm gương phản chiếu bản chất sâu xa của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam: Đi lên nhanh nhưng chưa đủ vững, năng động nhưng thiếu nền tảng. Doanh nhân Việt có sức bật tuyệt vời, song vẫn bị níu lại bởi những "thói quen văn hóa" hình thành trong môi trường phát triển chưa thật hoàn thiện. Những "căn bệnh" cố hữu cần nhìn thẳng để thay đổi:

Thứ nhất, giỏi xoay xở nhưng thiếu bài bản. Đây là hệ quả của một môi trường kinh doanh nhiều biến động, nơi luật chơi chưa ổn định, chính sách còn thay đổi nhanh. Trong bối cảnh ấy, doanh nhân Việt buộc phải linh hoạt, sáng tạo trong ứng biến, nhưng lâu dần, sự linh hoạt trở thành "chủ nghĩa tùy cơ", thiếu quy trình, thiếu chiến lược dài hạn. Điều này khiến doanh nghiệp Việt Nam thường "chạy theo cơ hội" hơn là "xây nền tảng bền vững".

Thứ hai, hứa nhiều làm ít - nói trước, làm sau. Một phần đến từ văn hóa quan hệ, nơi lời nói nhiều khi được coi trọng hơn cam kết pháp lý. Doanh nhân ta giỏi tạo thiện cảm, biết thuyết phục, nhưng đôi khi chưa rèn đủ kỷ luật thực thi và quản trị rủi ro. Trong nền kinh tế hiện đại, niềm tin thị trường không được xây bằng lời nói, mà bằng sự nhất quán giữa lời nói và hành động.

Thứ ba, thích nghi nhanh nhưng ít sáng tạo. Tư duy "bắt chước thành công của người khác" từng giúp doanh nghiệp Việt tồn tại trong giai đoạn đầu hội nhập. Nhưng giờ đây, thích nghi không đủ, chỉ có sáng tạo mới tạo ra giá trị mới. Sự thiếu sáng tạo bắt nguồn từ ba gốc rễ: Nền giáo dục nặng lý thuyết, hệ thống khuyến khích ít rủi ro, và môi trường kinh doanh chưa thật sự tôn vinh thất bại. Chúng ta cần một văn hóa dám sai, dám thử, bởi mọi đột phá đều được khai sinh từ sai lầm có kiểm soát.

Thứ tư, chú trọng hình thức, coi nhẹ thực chất. Văn hóa "thành tích", "đánh bóng tên tuổi", "làm cho đẹp" vẫn phổ biến trong cả khu vực công lẫn tư. Không ít doanh nghiệp đầu tư mạnh vào thương hiệu, vào truyền thông, nhưng lại chưa đầu tư tương xứng vào chất lượng sản phẩm, năng lực quản trị và công nghệ. Khi "hình ảnh" đi trước "thực lực", doanh nghiệp sẽ khó có thể đi xa trên thị trường quốc tế, nơi mọi giá trị đều được đo bằng chuẩn mực thực tế.

- Cội rễ của những hạn chế này là gì và khắc phục bằng cách nào, thưa Tiến sĩ?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi cho rằng, những "căn bệnh" ấy không phải do doanh nhân yếu kém, mà do môi trường hình thành của doanh nhân Việt Nam còn non trẻ và đặc thù.

Thứ nhất, do nền giáo dục chưa tạo ra tư duy kinh doanh hiện đại.

Chúng ta vẫn dạy "làm công" nhiều hơn dạy "làm chủ"; dạy tri thức nhiều hơn dạy năng lực tổ chức, tư duy rủi ro và tinh thần đổi mới. Doanh nhân Việt phần lớn là "tự thân vận động", nên thành công dựa nhiều vào kinh nghiệm, ít vào hệ thống kiến thức quản trị bài bản.

Thứ hai, do môi trường thể chế và chính sách chưa thật ổn định. Khi luật lệ thay đổi nhanh, chi phí tuân thủ cao, doanh nghiệp buộc phải linh hoạt đến mức "phản xạ sinh tồn", làm thế nào để vượt qua rào cản hôm nay, chứ chưa kịp nghĩ đến chiến lược của ngày mai. Hậu quả là nhiều doanh nghiệp "khôn lỏi để sống sót" thay vì "khôn ngoan để phát triển".

Thứ ba, do văn hóa ngắn hạn. Trong một nền kinh tế mà vòng đời chính sách, dự án, thậm chí nhân sự lãnh đạo đều ngắn, tư duy "ăn xổi" dễ lấn át tư duy "dài hơi." Trong khi đó, doanh nghiệp thành công trên thế giới, như Toyota, Samsung, hay Apple đều được xây bằng tư duy 30 năm, chứ không phải 3 năm.

Muốn khắc phục, trước hết doanh nhân Việt phải nhận thức rõ rằng năng lực dài hạn quan trọng hơn thắng lợi ngắn hạn. Từ đó, từng bước chuyên nghiệp hóa trong ba trụ cột:

Tư duy chiến lược: Không chạy theo cơ hội, mà tạo ra cơ hội; đầu tư vào tri thức, công nghệ và quản trị dài hạn.

Kỷ luật thực thi: Nói ít, làm nhiều; cam kết phải đi đôi với trách nhiệm.

Văn hóa đổi mới: Biến sáng tạo thành tài sản cốt lõi, chấp nhận thử - sai - học để tiến lên.

Song song, Nhà nước cần kiến tạo môi trường khuyến khích cái đúng và bảo vệ người làm đúng. Một thể chế ổn định, công bằng, minh bạch sẽ giúp doanh nhân bớt phải "xoay xở" mà có thể "xây dựng". Một nền giáo dục đổi mới, coi trọng tư duy phản biện và dạy kỹ năng lãnh đạo sẽ tạo ra thế hệ doanh nhân có trí tuệ hệ thống, chứ không chỉ "kỹ năng sinh tồn".

Đã đến lúc doanh nhân Việt Nam cần bước ra khỏi hình ảnh "người xoay xở tài tình" để trở thành "người kiến tạo bền vững". Thành công thật sự không nằm ở chỗ vượt khó giỏi đến đâu, mà ở chỗ xây được hệ thống vững đến mức không cần phải xoay xở. Và khi thế hệ doanh nhân mới dám sống chậm hơn để đi xa hơn, dám đầu tư cho nền tảng, dám sáng tạo thay vì chỉ thích nghi thì nền kinh tế Việt Nam sẽ trưởng thành thật sự.

Đã đến lúc doanh nhân Việt Nam cần bước ra khỏi hình ảnh "người xoay xở tài tình" để trở thành "người kiến tạo bền vững".
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 39.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

- Phát triển bền vững đang trở thành yêu cầu cấp thiết, trong đó doanh nghiệp phải cân bằng giữa mục tiêu lợi nhuận với trách nhiệm đối với cộng đồng và môi trường. Quan điểm "lợi ích hài hòa" đã được nhấn mạnh: Doanh nghiệp cần kinh doanh liêm chính, tăng trưởng trong sự hài hòa với bảo vệ môi trường và đóng góp xã hội. Làm sao để văn hóa "kinh doanh tử tế", coi trọng đạo đức, nhân văn và lợi ích dài hạn của cộng đồng thấm sâu vào chiến lược của từng doanh nghiệp, thay vì CSR chỉ dừng ở khẩu hiệu hoặc hoạt động từ thiện nhỏ lẻ?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Phát triển bền vững không còn là một lựa chọn đạo đức, mà đã trở thành điều kiện sống còn của mọi doanh nghiệp trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Trong thời đại mà biến đổi khí hậu, bất bình đẳng xã hội và cạn kiệt tài nguyên đang định hình lại trật tự thế giới, một doanh nghiệp chỉ biết đến lợi nhuận ngắn hạn sẽ không thể tồn tại lâu dài.

Do đó, văn hóa kinh doanh tử tế, hay nói cách khác, kinh doanh có lương tâm và trách nhiệm xã hội, chính là đạo lý mới của thành công.

Thứ nhất, "lợi ích hài hòa" chính triết lý phát triển của thời đại mới.

Quan điểm "lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ" mà Đảng ta nhiều lần nhấn mạnh, là lời nhắc cho cả khu vực công và tư rằng phát triển chỉ bền vững khi lợi ích của doanh nghiệp gắn với lợi ích của xã hội và môi trường. Nếu trong thế kỷ XX, tiêu chí thành công là tăng trưởng doanh thu, thì thế kỷ XXI đòi hỏi doanh nghiệp phải đo lường giá trị bằng đóng góp xã hội. Một doanh nghiệp biết tôn trọng người lao động, bảo vệ thiên nhiên, lan tỏa văn hóa tử tế chính là doanh nghiệp đang "kinh doanh niềm tin" chứ không chỉ "kinh doanh sản phẩm".

Thứ hai, làm sao để văn hóa tử tế trở thành chiến lược, không chỉ khẩu hiệu?

Trước hết, cần chuyển hóa CSR (trách nhiệm xã hội doanh nghiệp) từ hoạt động bên lề sang trục chính trong chiến lược phát triển. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải tích hợp các giá trị bền vững vào mọi quyết định, từ thiết kế sản phẩm, chọn đối tác, đến chuỗi cung ứng. Khi đó, "kinh doanh tử tế" không phải là khẩu hiệu đạo đức, mà là mô hình vận hành thông minh: Giảm chi phí dài hạn, tăng uy tín, và thu hút nhân tài.

Cụ thể, cần ba chuyển biến căn bản:

Từ từ thiện sang đầu tư xã hội: Không chỉ trao tặng, mà tạo ra cơ hội phát triển cho cộng đồng.

Từ tuân thủ sang đổi mới: Không chỉ "làm đúng luật", mà còn "làm điều đúng" vượt chuẩn pháp lý.

Từ hình thức sang thực chất: CSR không nằm ở báo cáo đẹp, mà ở tác động thật, lượng phát thải giảm, công nhân hạnh phúc hơn, sản phẩm an toàn hơn.

Song song, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp bền vững, như ưu tiên tín dụng xanh, chứng nhận ESG, xếp hạng công khai doanh nghiệp tử tế. Khi thị trường khen thưởng điều đúng, thì văn hóa tử tế sẽ không cần khẩu hiệu, vì nó trở thành lợi thế cạnh tranh thật sự.

Thứ ba, TH Group một điển hình của "kinh doanh tử tế".

Một ví dụ điển hình là Tập đoàn TH do bà Thái Hương sáng lập. Từ khi khởi nghiệp với dự án sữa tươi sạch tại Nghệ An, bà không chỉ nhìn thấy cơ hội thị trường, mà nhìn thấy trách nhiệm với sức khỏe trẻ em và tương lai giống nòi Việt.

TH đã tiên phong trong mô hình "nông nghiệp xanh, tuần hoàn và truy xuất nguồn gốc", áp dụng công nghệ Israel, Hà Lan, Đức… để tạo ra sản phẩm đạt chuẩn quốc tế, bảo vệ môi trường và mang lại thu nhập ổn định cho hàng vạn hộ nông dân. Họ không chỉ "làm sữa", mà làm văn hóa tiêu dùng tử tế, hướng người Việt tới lối sống lành mạnh và tự hào với sản phẩm nội địa. Chính vì vậy, bà Thái Hương được quốc tế vinh danh trong nhiều bảng xếp hạng về phát triển bền vững, bình đẳng giới và đóng góp xã hội.

Mô hình của TH cho thấy rằng: Lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế không hề mâu thuẫn mà cùng nhau tạo ra giá trị bền vững. Một doanh nghiệp có thể vừa sinh lời, vừa làm điều tốt; vừa mạnh mẽ, vừa nhân văn. Đó mới là "DNA Việt Nam" trong kinh doanh hiện đại.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 40.

Thứ tư, từ đạo đức đến sức mạnh quốc gia.

Khi văn hóa kinh doanh tử tế thấm sâu vào từng doanh nghiệp, nó sẽ lan tỏa thành đạo đức của nền kinh tế. Một nền kinh tế có đạo đức là nền kinh tế biết quan tâm đến con người, tôn trọng môi trường và gìn giữ niềm tin xã hội, đó chính là "nền tảng mềm" của quốc gia thịnh vượng.

Nếu mỗi doanh nghiệp coi tử tế là thương hiệu, trách nhiệm là lợi thế và bền vững là con đường, thì Việt Nam sẽ có không chỉ những tập đoàn lớn, mà còn những tập đoàn tử tế, được thế giới nể trọng không chỉ vì quy mô, mà vì nhân cách. Và khi ấy, "doanh nghiệp dân tộc" sẽ thực sự trở thành sức mạnh dân tộc, đưa Việt Nam tiến vững vàng trên con đường đến năm 2045, một quốc gia phát triển, hùng cường và nhân văn.

Một nền kinh tế thịnh vượng đòi hỏi cộng đồng doanh nghiệp thượng tôn pháp luật và thực hành kinh doanh một cách bài bản, chuyên nghiệp. Nghị quyết 68 cũng nêu mục tiêu chú trọng đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân "có đạo đức, văn hóa kinh doanh, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật, tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội". Theo ông, việc xây dựng một thế hệ doanh nhân tuân thủ pháp luật và chuẩn mực sẽ tác động thế nào đến niềm tin của công chúng và môi trường đầu tư? Chúng ta cần những biện pháp gì để khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh liêm chính, nói không với hối lộ, gian lận, từ đó tạo sân chơi bình đẳng và một thị trường cạnh tranh lành mạnh?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững khi pháp luật là điểm tựa, và đạo đức là giới hạn bên trong của mọi hành vi kinh doanh.

Sự thịnh vượng không thể xây trên những "đường tắt", mà chỉ có thể được vun đắp bằng niềm tin và niềm tin chỉ nảy nở khi doanh nghiệp thượng tôn pháp luật, hành xử liêm chính và cạnh tranh công bằng. Có bốn vấn đề chúng ta cần lưu tâm:

Thứ nhất, thượng tôn pháp luật là nền tảng của niềm tin thị trường.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp luật là "luật chơi chung" của mọi chủ thể kinh tế. Doanh nghiệp thượng tôn pháp luật không chỉ thể hiện sự tuân thủ, mà còn thể hiện văn hóa tôn trọng trật tự, kỷ cương và công bằng. Khi doanh nhân tôn trọng luật pháp, xã hội sẽ tôn trọng doanh nhân; khi doanh nghiệp hành xử minh bạch, Nhà nước sẽ tin tưởng mà trao quyền. Đó là mối quan hệ tương hỗ giữa niềm tin và pháp quyền, nơi Nhà nước kiến tạo, doanh nghiệp tự giác, và xã hội giám sát.

Nghị quyết 68 đã khẳng định rõ: "Phát triển đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật". Điều này cho thấy pháp luật không chỉ là công cụ quản lý, mà còn là thước đo phẩm giá và tầm vóc của doanh nhân hiện đại.

Thứ hai, khi doanh nghiệp liêm chính, quốc gia được tín nhiệm.

Một cộng đồng doanh nghiệp hành xử liêm chính sẽ tạo ra vốn xã hội, thứ tài sản vô hình nhưng quý giá nhất của nền kinh tế. Niềm tin ấy lan tỏa theo ba tầng:

Niềm tin của người dân: Họ tin vào sản phẩm "sạch", vào giá trị "thật", không phải hàng hóa bị thổi phồng hay gian dối.

Niềm tin của nhà đầu tư: Họ yên tâm rót vốn dài hạn khi biết rằng thị trường minh bạch, luật được tôn trọng, hợp đồng được thực thi nghiêm minh.

Niềm tin của quốc tế: Uy tín của doanh nghiệp là uy tín của quốc gia; khi doanh nghiệp Việt được biết đến là trung thực, có trách nhiệm, Việt Nam sẽ trở thành điểm đến đầu tư đáng tin cậy trong mắt thế giới.

Thực tế đã chứng minh: Quốc gia nào có chỉ số liêm chính doanh nghiệp cao thì năng suất, sáng tạo và tăng trưởng cũng cao hơn. Liêm chính không làm chậm lại tốc độ phát triển, nó là năng lượng khiến sự phát triển bền vững và được tôn trọng.

Thứ ba, cần làm gì để xây dựng cộng đồng doanh nghiệp liêm chính?

Thiết lập thể chế "không dung dưỡng hành vi sai trái". Nhà nước phải bảo đảm luật pháp được thực thi công bằng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Một khi hành vi hối lộ, gian lận, trốn thuế bị xử lý nghiêm minh, chi phí của cái sai sẽ cao hơn lợi ích, và doanh nghiệp sẽ tự giác chọn con đường liêm chính.

Phát triển các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp làm đúng. Cần xây dựng hệ thống đánh giá và xếp hạng "doanh nghiệp liêm chính", gắn với ưu đãi trong đấu thầu, tín dụng, và quảng bá thương hiệu. Các chương trình như "Liên minh doanh nghiệp liêm chính Việt Nam (VBLI)" hay "Bộ chỉ số liêm chính doanh nghiệp" của VCCI cần được mở rộng và đưa vào thực hành thật sự.

Thứ ba, lan tỏa văn hóa pháp quyền trong cộng đồng doanh nhân. Các hiệp hội, trường đào tạo quản trị, và truyền thông cần góp phần hình thành "văn hóa tôn trọng pháp luật" như một giá trị danh dự. Học cách hiểu luật, vận hành trong luật, và tự giác tuân thủ luật phải trở thành "môn học bắt buộc" của doanh nhân Việt Nam thế hệ mới.

Thứ tư, thúc đẩy chính phủ số và quản trị công minh bạch. Khi mọi quy trình hành chính được số hóa, khi dữ liệu được công khai và ra quyết định dựa trên hệ thống chấm điểm rủi ro, khoảng tối cho tham nhũng sẽ bị thu hẹp. Chuyển đổi số, xét đến cùng, là cải cách liêm chính bằng công nghệ.

Thứ tư, từ doanh nghiệp liêm chính đến quốc gia đáng tin.

Một nền kinh tế hùng cường không thể chỉ dựa vào tăng trưởng GDP, mà phải được đo bằng chất lượng của niềm tin xã hội. Và niềm tin ấy được tạo nên từ những doanh nhân liêm chính, thượng tôn pháp luật, biết làm giàu chính đáng và làm sang cho đất nước.

Khi doanh nhân không cần "chạy", mà luật pháp luôn "chạy cùng"; khi thị trường không cần "xin", mà cơ hội mở cho người xứng đáng, đó chính là đỉnh cao của một nền kinh tế văn minh. Và cũng khi ấy, doanh nhân Việt Nam sẽ không chỉ là "người làm kinh tế", mà là người kiến tạo niềm tin quốc gia, góp phần đưa Việt Nam tiến vững chắc đến khát vọng 2045.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 41.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

- Trải qua bao biến cố, tầng lớp doanh nhân Việt Nam ngày nay dần được xã hội ghi nhận là động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế, nhưng vẫn còn đó định kiến coi họ chỉ là "con buôn". Bản thân giới doanh nhân cũng không muốn bị coi là "con buôn" theo kiểu cách đánh giá phiến diện xưa nay, mà mong được nhìn nhận như những "nhà công nghiệp", "nhà kiến tạo" đáng trân trọng. Theo ông, làm thế nào để nâng cao hình ảnh, vị thế của doanh nhân trong con mắt xã hội - để xã hội trân trọng hơn những người đang âm thầm cống hiến, để "doanh nhân" không chỉ là người làm giàu cho mình, mà còn là người giữ lửa cho quốc gia?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Đúng là trong một thời gian dài, xã hội Việt Nam từng nhìn doanh nhân với ánh mắt dè dặt, thậm chí hoài nghi. Từ sau thời kỳ chiến tranh và bao cấp, hình ảnh "con buôn" gắn với tư lợi, với chênh lệch giàu nghèo, khiến giới làm kinh tế tư nhân khó được tôn vinh như xứng đáng. Nhưng hôm nay, khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển, chúng ta phải nhìn doanh nhân bằng con mắt của tương lai, chứ không phải của quá khứ. Nếu như trong chiến tranh, "chiến sĩ cầm súng" bảo vệ non sông, thì trong hòa bình, "chiến sĩ doanh nhân" chính là người kiến tạo của cải, mở rộng biên cương kinh tế và làm rạng danh quốc gia.

Thứ nhất, từ "con buôn" đến "nhà kiến tạo" là một hành trình nhận thức.

Từ thời phong kiến, nghề buôn bán bị coi là "tiện nghiệp", dưới Nho học trọng nông - khinh thương. Tâm lý ấy kéo dài đến thế kỷ XX, khiến hình ảnh người kinh doanh bị định kiến là "vì lợi", trong khi thực tế họ chính là người khởi nghiệp cho sự thịnh vượng.

Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường trở thành trụ cột phát triển quốc gia, doanh nhân không còn là người "buôn bán hàng hóa" mà là người "sản xuất giá trị". Họ là nhà công nghiệp, nhà sáng tạo, nhà kiến thiết tương lai. Một xã hội văn minh là xã hội biết trân trọng người tạo ra của cải chính đáng, bởi chính họ đang nuôi dưỡng nguồn lực cho phát triển, việc làm cho hàng triệu người, và thu ngân sách cho đất nước.

Thứ hai, vì sao xã hội cần thay đổi cách nhìn?

Bởi doanh nhân ngày nay không chỉ làm giàu cho mình, mà gánh vác phần không nhỏ của "sự nghiệp kiến quốc thời bình". Họ đầu tư vào công nghiệp xanh, công nghệ số, nông nghiệp sạch, đổi mới sáng tạo, những lĩnh vực mà Nhà nước rất cần nhưng không thể tự mình bao trọn.

Họ đi ra thế giới với thương hiệu Việt, mang trí tuệ Việt sánh vai cùng các tập đoàn quốc tế, nâng tầm vị thế dân tộc bằng năng lực cạnh tranh và tinh thần phụng sự.

Và cũng chính họ, trong khủng hoảng, từ đại dịch đến thiên tai đã chứng minh rằng doanh nhân không chỉ là người tính toán lợi nhuận, mà còn là người biết sẻ chia. Những đoàn xe chở hàng cứu trợ, những quỹ vaccine, những gói an sinh hàng nghìn tỷ đồng của các doanh nghiệp tư nhân Việt là bằng chứng hùng hồn rằng: "Doanh nhân Việt Nam có trái tim Việt Nam".

Thứ ba, làm sao để xã hội trân trọng hơn giới doanh nhân?

Trước hết, phải thay đổi nhận thức xã hội thông qua giáo dục và truyền thông. Trong sách giáo khoa, trên truyền hình, trong các chương trình tôn vinh, cần có nhiều hơn hình ảnh của doanh nhân, như những người sáng tạo ra công ăn việc làm, người góp phần làm nên vị thế Việt Nam mới. Tôn vinh doanh nhân không phải tôn vinh tiền bạc, mà tôn vinh ý chí, tri thức và khát vọng.

Tiếp theo, phải định hình văn hóa doanh nhân Việt Nam như một giá trị tinh thần quốc gia. Cũng như ta có "văn hóa công vụ", "văn hóa Đảng viên", thì cần có "văn hóa doanh nhân", nơi liêm chính, trách nhiệm và khát vọng vì đất nước là phẩm giá cốt lõi. Khi doanh nhân hành xử tử tế, xã hội sẽ tự nhiên trân trọng họ.

Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế đối thoại thường xuyên giữa Nhà nước và doanh nghiệp, để doanh nhân được lắng nghe, được đồng hành và được coi là đối tác phát triển, chứ không phải đối tượng quản lý. Đó chính là môi trường nuôi dưỡng lòng tin và vị thế của họ.

Thứ tư, doanh nhân - người giữ lửa cho quốc gia.

Tôi tin rằng, một dân tộc chỉ thật sự cất cánh khi doanh nhân của dân tộc đó được tôn vinh như những người hùng của thời đại mới. Bởi chính họ là người giữ lửa cho quốc gia trong hòa bình, ngọn lửa của sáng tạo, của khát vọng, của tự tôn dân tộc. Khi doanh nhân được tin tưởng, xã hội sẽ mạnh; khi doanh nhân được tôn trọng, quốc gia sẽ giàu; và khi doanh nhân được truyền cảm hứng, dân tộc ấy sẽ không gì ngăn nổi trên con đường thịnh vượng.

Vì thế, đã đến lúc chúng ta nhìn giới doanh nhân không qua lăng kính "con buôn", mà qua ánh sáng của "người kiến tạo". Họ là những người dám mơ giấc mơ lớn, dám chịu rủi ro, dám gánh vác sứ mệnh dựng xây tương lai. Khi xã hội biết trân trọng họ, và khi chính họ giữ được lòng tử tế cùng khát vọng Việt Nam trong tim mình thì "doanh nhân" sẽ không chỉ là danh xưng nghề nghiệp, mà là biểu tượng của một tinh thần: Tinh thần kiến quốc trong kỷ nguyên mới.

- Với tư cách là một nhà hoạch định chính sách và chuyên gia hàng đầu về khoa học thể chế, chính sách, ông muốn gửi gắm điều gì tới thế hệ doanh nhân Việt Nam hiện tại và tương lai? Đứng trước vận hội và thách thức của kỷ nguyên mới, tố chất và tư duy nào ông kỳ vọng doanh nhân Việt sẽ có để dẫn dắt kinh tế đất nước tiến lên?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Nếu phải gửi gắm một thông điệp đến thế hệ doanh nhân Việt Nam hôm nay và mai sau, tôi chỉ muốn nói rằng: Các bạn không chỉ là người làm kinh tế, mà là người làm lịch sử. Trong thời đại mà "chiến trường" không còn là chiến hào, mà là thị trường; không còn súng đạn, mà là công nghệ và trí tuệ, doanh nhân chính là chiến sĩ tiên phong của dân tộc trên mặt trận phát triển.

Thứ nhất, doanh nhân là người viết tiếp khúc trường ca kiến quốc.

Nếu như Hội nghị Diên Hồng năm 1284 là biểu tượng của ý chí đồng lòng giữ nước, thì "Diên Hồng kinh tế" của thế kỷ XXI phải là biểu tượng của ý chí đồng lòng dựng nước, nơi doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý cùng hòa chung khát vọng "Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc". Mỗi doanh nhân hôm nay không chỉ làm nên thương hiệu cho doanh nghiệp của mình, mà còn góp phần định hình thương hiệu của cả dân tộc.

Thứ hai, về tố chất và tư duy doanh nhân Việt thời đại mới.

Tôi kỳ vọng thế hệ doanh nhân mới của Việt Nam sẽ mang trong mình năm phẩm chất cốt lõi của một "người kiến tạo thời đại":

Tầm nhìn dài hạn, không chạy theo lợi nhuận trước mắt, mà kiên định đầu tư cho giá trị bền vững, cho con người, cho công nghệ, cho tri thức. Những doanh nhân vĩ đại không đo thành công bằng tiền, mà bằng tầm ảnh hưởng họ để lại cho tương lai.

Bản lĩnh dấn thân và tinh thần học hỏi suốt đời. Thế giới đang thay đổi từng ngày; ai ngừng học là tự loại mình khỏi cuộc chơi. Doanh nhân Việt phải là những người học nhanh nhất, thích ứng linh hoạt nhất, và bền bỉ nhất.

Trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Phát triển không thể đánh đổi niềm tin. Người làm kinh tế phải giữ "ngọn lửa lương tâm", bởi giàu có thật sự không phải là có bao nhiêu tiền, mà là để lại bao nhiêu giá trị tốt đẹp cho cộng đồng.

Khả năng hợp tác và tư duy hệ sinh thái. Một doanh nghiệp không thể lớn lên trong cô độc; một dân tộc chỉ cất cánh khi các doanh nghiệp biết cùng nhau bay. Doanh nhân Việt phải biết "cạnh tranh trong cộng sinh", vừa tranh đua để tiến lên, vừa hợp lực để cùng mạnh.

Tinh thần tự tôn dân tộc và khát vọng Việt Nam. Đó là sức mạnh sâu thẳm khiến người Việt dám làm điều tưởng như không thể: Từ nông dân trở thành nhà công nghiệp, từ quốc gia đang phát triển trở thành quốc gia kiến tạo. Chính tinh thần này sẽ giúp doanh nhân Việt dám bước ra thế giới, mang thương hiệu Việt đi xa mà vẫn giữ được tâm hồn Việt.

Thứ ba, vận hội và thách thức của kỷ nguyên mới.

Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, và kinh tế xanh, nơi thành công không đến từ tài nguyên thiên nhiên, mà từ tài nguyên con người và thể chế. Đây là thời đại mà người có tầm nhìn và giá trị sẽ dẫn dắt, chứ không phải người chỉ có vốn. Doanh nhân Việt Nam cần chuẩn bị cho mình một "bộ công cụ tương lai" gồm: Năng lực số, tư duy toàn cầu, đạo đức nghề nghiệp và văn hóa dân tộc.

Khi những phẩm chất ấy hội tụ, doanh nhân Việt sẽ đủ sức dẫn dắt sự trỗi dậy mới của đất nước, một Việt Nam thịnh vượng và có tiếng nói trong trật tự kinh tế toàn cầu.

Thứ tư, doanh nhân dân tộc - ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng.

Tôi luôn tin rằng, vận mệnh của một quốc gia nằm trong tâm thế của doanh nhân của quốc gia đó. Nếu doanh nhân yếu hèn, đất nước không thể mạnh. Nếu doanh nhân sợ thay đổi, dân tộc khó vươn lên. Nhưng nếu doanh nhân dám mơ lớn, dám chịu trách nhiệm, dám hành động bằng khát vọng và tử tế thì Việt Nam nhất định sẽ bước vào kỷ nguyên mới của phồn vinh.

Hãy nhớ rằng: "Người lính giữ nước bằng lòng dũng cảm. Còn doanh nhân giữ nước bằng lòng tin, trí tuệ và khát vọng vươn mình".

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 42.

- Sau nhiều năm nghiên cứu và quan sát, ông có bao giờ nghĩ rằng "niềm tin" chính là dạng vốn xã hội quý giá nhất? Giữa thời biến động, điều gì giúp dân tộc Việt Nam giữ vững niềm tin và hướng tới tương lai, để mỗi người Việt, dù đi xa hay ở gần vẫn thấy một sợi dây vô hình nối họ với Tổ quốc, bằng trái tim an hòa, nhưng rực cháy khát vọng vươn lên?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Vâng, tôi luôn tin rằng trong mọi loại vốn, từ vốn vật chất, vốn con người, vốn tri thức,… thì "niềm tin" chính là dạng vốn xã hội quý giá nhất. Một dân tộc có thể nghèo tài nguyên, nhưng nếu giàu niềm tin, họ vẫn có thể dựng xây tất cả. Ngược lại, khi niềm tin bị bào mòn, không có nguồn lực nào đủ để vực dậy tinh thần và khát vọng của một quốc gia.

Thứ nhất, niềm tin chính là mạch nguồn của sức mạnh dân tộc.

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh: Chúng ta chưa bao giờ chiến thắng nhờ sức mạnh vật chất, mà luôn chiến thắng nhờ niềm tin. Niềm tin đã dẫn dắt Lý Thường Kiệt viết "Nam quốc sơn hà"; niềm tin đã khiến hàng triệu con người ra trận trong lời thề "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"; và cũng chính niềm tin ấy đang thôi thúc thế hệ hôm nay, trong hòa bình, kiến tạo một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Niềm tin ấy không phải là sự lạc quan mù quáng, mà là một phẩm chất văn hóa sâu thẳm của dân tộc, tin vào chính mình, tin vào lẽ phải, tin vào tương lai. Đó là thứ giúp người Việt "gượng dậy" sau đổ nát, "đứng dậy" sau đòn đau và "vươn dậy" giữa nghịch cảnh.

Thứ hai, giữ vững niềm tin trong thời biến động.

Thế giới hôm nay đầy biến động: Công nghệ thay đổi trật tự, địa chính trị dịch chuyển, giá trị con người bị thử thách. Giữa cơn xoáy ấy, điều giúp một dân tộc không lạc hướng chính là niềm tin chung, niềm tin vào con đường mình đã chọn, vào thể chế mình đang xây, và vào tương lai mình đang kiến tạo.

Đối với Việt Nam, niềm tin ấy được kết tinh từ sự đồng lòng giữa Đảng - Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhân dân. Đó là niềm tin rằng chúng ta đang đi đúng hướng, từ một đất nước từng nghèo khó, vươn lên thành nền kinh tế năng động hàng đầu châu Á và đang bước những bước vững chắc vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên của trí tuệ, sáng tạo và nhân văn.

Trong bối cảnh ấy, doanh nhân giữ niềm tin bằng hành động; trí thức giữ niềm tin bằng tri thức; và người dân giữ niềm tin bằng lao động và lòng trung thực. Mỗi người đều là một "người gác đền" cho niềm tin chung ấy, thứ vốn xã hội vô hình nhưng bền vững nhất của quốc gia.

Thứ ba, niềm tin là sợi dây vô hình nối mỗi người Việt với Tổ quốc.

Có một sợi dây vô hình nối người Việt với nhau, dù họ ở bất cứ đâu: Trong nước hay năm châu bốn bể. Đó là tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc và khát vọng cùng góp phần dựng xây Tổ quốc. Sợi dây ấy không ồn ào, không cần tuyên ngôn, nhưng hiện hữu trong từng lựa chọn: Một doanh nhân đầu tư vào quê hương, một kỹ sư Việt kiều trở về mang tri thức mới, một công nhân ngày ngày làm việc với niềm tin rằng con cái họ sẽ sống tốt hơn cha mẹ mình.

Chính những điều bình dị ấy tạo nên sức mạnh bền vững, sức mạnh của "trái tim Việt Nam". Một trái tim an hòa vì đã đi qua nhiều đau thương, nhưng rực cháy vì khát vọng không bao giờ tắt.

Có một sợi dây vô hình nối người Việt với nhau, dù họ ở bất cứ đâu: Trong nước hay năm châu bốn bể. Đó là tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc và khát vọng cùng góp phần dựng xây Tổ quốc.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 43.TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Thứ tư, niềm tin là năng lượng để vươn lên.

Niềm tin là thứ duy nhất càng chia sẻ càng lớn lên. Khi người dân tin vào Nhà nước, Nhà nước tin vào doanh nghiệp, doanh nghiệp tin vào thị trường và tất cả cùng tin vào tương lai - thì sức mạnh quốc gia được nhân lên gấp bội. Đó là khi xã hội vận hành bằng đồng thuận, kinh tế phát triển bằng sáng tạo và con người sống bằng lẽ phải.

Chúng ta đang đứng trước một thời khắc lịch sử, nơi tương lai của Việt Nam không chỉ được quyết định bởi nguồn lực vật chất, mà bởi mức độ niềm tin mà dân tộc này có thể tự khơi dậy. Và tôi tin, sau tất cả, niềm tin Việt Nam vẫn đang sống, vẫn đang lớn, vẫn đang soi đường cho chúng ta bước tới.

Thứ năm, niềm tin - linh hồn của khát vọng Việt Nam.

Mỗi người Việt, dù ở đâu, làm gì, đều mang trong tim một phần của Tổ quốc. Khi họ tin vào chính mình, họ đang góp một viên gạch vào niềm tin chung của đất nước. Và khi cả dân tộc cùng tin, sẽ không có đỉnh cao nào là không thể chạm tới.

"Niềm tin là ngọn lửa,

Khi bão giông thổi qua, chỉ ai giữ được lửa trong tim mới có thể soi đường cho người khác".

Tôi tin rằng dân tộc Việt Nam, với bản lĩnh đã được thử lửa suốt nghìn năm lịch sử sẽ không bao giờ để ngọn lửa ấy tắt.

Và chính từ niềm tin ấy, một Việt Nam hùng cường, nhân văn và tỏa sáng sẽ hiện hữu, không chỉ trong ước mơ, mà trong hiện thực của thế kỷ XXI.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam thịnh vượng”- Ảnh 44.

- 80 năm trước, trong những ngày đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi đi một thông điệp vượt thời gian: "Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau".

Đó không chỉ là một lời động viên, mà là một tuyên ngôn phát triển, đặt nền móng cho tư tưởng đồng hành giữa doanh nhân - quốc gia - dân tộc.

80 năm sau, khi đất nước bước vào thời khắc chiến lược của kỷ nguyên mới, Tổng Bí thư Tô Lâm đã hiệu triệu: Đội ngũ doanh nhân Việt Nam phải trở thành những "chiến sĩ tiên phong trên mặt trận kinh tế", những người "có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật, có khát vọng vươn lên làm giàu cho mình và góp phần làm giàu cho đất nước".

Đó không chỉ là một lời kêu gọi, mà là mệnh lệnh của thời đại, khơi dậy hào khí Diên Hồng thời phát triển kinh tế.

Trong cuộc trò chuyện này, TS. Nguyễn Sĩ Dũng đã truyền tải những tư tưởng sắc sảo, khơi mở những mạch nguồn lớn: Tái sinh tinh thần Diên Hồng trong thời bình, cải cách thể chế để giải phóng năng lực sáng tạo và khẳng định doanh nhân dân tộc là ngọn lửa của khát vọng Việt Nam hùng cường. Ông nói về một cuộc "Đổi mới 2.0" do Tổng Bí thư Tô Lâm khởi xướng, không chỉ đổi mới về chính sách, mà còn là đổi mới về tinh thần, tư duy và tầm vóc dân tộc.

Như TS. Nguyễn Sĩ Dũng đã bình luận, một cuộc "Đổi mới 2.0" là điều tất yếu nếu Việt Nam muốn bứt phá. Nhưng đổi mới không chỉ bắt đầu từ chính sách, nó bắt đầu từ một tinh thần, từ niềm tin của thể chế vào doanh nhân và từ khát vọng phụng sự Tổ quốc của chính những con người làm kinh tế.

Từ Diên Hồng của quá khứ đến khát vọng 2045, từ lời hiệu triệu năm 1945 đến cuộc đối thoại hôm nay, có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt: Niềm tin vào sức mạnh đoàn kết dân tộc và khát vọng phát triển. Khi đội ngũ doanh nhân dân tộc đủ mạnh, thể chế đủ kiến tạo và xã hội đủ đồng lòng, Việt Nam không chỉ đi nhanh hơn, mà còn có thể viết nên một chương lịch sử mới, chương của một dân tộc thịnh vượng, văn minh và hùng cường.

Xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Sĩ Dũng, người đã dành thời gian, tâm huyết và trí tuệ cho cuộc trò chuyện đặc biệt này. Những tư tưởng mà ông chia sẻ không chỉ là những luận điểm học thuật sắc sảo, mà còn là nguồn cảm hứng lớn tiếp thêm niềm tin và khí phách cho đội ngũ doanh nhân dân tộc Việt Nam trên hành trình vươn mình vì Tổ quốc!

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top