Tại báo cáo công bố mới đây, Ngân hàng Thế giới (World Bank) nhận định: Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều nền kinh tế trên thế giới nhưng có một vài dấu hiệu khả quan hơn tại Việt Nam. Kể từ khi công bố dịch hồi tháng 2, Chính phủ đã thi hành nhiều chính sách hiệu quả và hành động sớm để giảm thiểu tác động của đại dịch. Đến nay Việt Nam đã thành công trong việc duy trì số ca lây nhiễm và tử vong ở mức thấp so với nhiều quốc gia khác.
Cụ thể, Việt Nam thực hiện cách ly xã hội lần đầu vào ngày 1/4/2020 trên phạm vi cả nước và kéo dài trong 15 ngày. Một số tỉnh thành kéo dài thời hạn cách ly hơn 15 ngày, sau đó chuyển sang các biện pháp giãn cách xã hội. Tới giữa tháng 5, các biện pháp giãn cách xã hội đã được tạm dừng. Đến cuối quý II/2020, nền kinh tế Việt Nam cho thấy khả năng kháng cự tốt với mức tăng trưởng GDP năm 2020 kỳ vọng ở mức 2%, trong khi nhiều nền kinh tế ASEAN khác được dự báo tăng trưởng âm.
Tuy nhiên, World Bank bày tỏ sự quan ngại về đợt bùng phát thứ 2 ở Đà Nẵng, bởi điều này đã làm gia tăng tính bất định về khoảng thời gian kéo dài của đại dịch. Trong thời gian đại dịch vẫn còn tiếp diễn, các hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ chịu nhiều sức ép, trong khi không biết các đợt bùng phát tiếp theo sẽ diễn ra khi nào. Mặc dù Việt Nam đã chống dịch tốt trong giai đoạn đầu nhưng còn nhiều bất định về những tác động dài hạn và việc Việt Nam sẽ hồi phục như thế nào sau đại dịch.
"Do đó, điều quan trọng là cần tiếp tục thực hiện giám sát và đánh giá tình hình có nhiều biến động này nhằm hỗ trợ ra các quyết định chính sách hiệu quả hơn về cách thức giảm thiểu tác động của Covid-19 đối với doanh nghiệp và hộ gia đình, đồng thời hỗ trợ phục hồi nền kinh tế", nhóm nghiên cứu World Bank đánh giá.
Để hiểu được tác động của đại dịch Covid-19 đối với các doanh nghiệp Việt Nam, World Bank đã tiến hành Khảo sát tình hình doanh nghiệp nhằm đánh giá các kênh tác động khác nhau của đại dịch đối với doanh nghiệp, chiến lược điều chỉnh của doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
Tại đợt khảo sát đầu tiên, nhóm nghiên cứu World Bank đã rút ra được một số vấn đề chính:
Thứ nhất, các biện pháp phong tỏa có tác động lớn nhưng mang tính ngắn hạn tới tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Khoảng 1/2 số doanh nghiệp đã đóng cửa trong tháng 4 do yêu cầu của Chính phủ hoặc do quyết định của doanh nghiệp.
Trên 80% doanh nghiệp đã hoạt động trở lại vào tháng 6, song có khoảng 20% số doanh nghiệp chỉ hoạt động một phần hoặc vẫn phải đóng cửa.
Doanh thu của doanh nghiệp giảm mạnh, và mặc dù các quy định giãn cách xã hội đã nới lỏng, 81% doanh nghiệp vẫn cho biết doanh số bị sụt giảm trong tháng 6/2020. Trong khi doanh số đã phục hồi nhẹ vào tháng 6, đại đa số doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với tình trạng tăng trưởng doanh số âm so với cùng kỳ năm ngoái.
Thứ hai, mặc dù các quy định giãn cách xã hội đã nới lỏng, cầu vẫn ở mức thấp, 81% doanh nghiệp vẫn bị giảm doanh số trong tháng 6/2020 so với cùng kỳ năm ngoái. Doanh nghiệp bị ảnh hưởng chồng chất bởi nhiều khía cạnh khác nhau. Hơn một nửa số doanh nghiệp tham gia khảo sát bị tác động bởi sụt giảm đầu vào. Cùng với việc giảm cầu, các doanh nghiệp phải hứng chịu tình trạng sụt giảm dòng tiền.
Tính bình quân, doanh thu giảm gần 50% trong tháng 4 và trên mức 40% vào tháng 6 so với cùng kỳ năm ngoái. Cả doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) và doanh nghiệp lớn đều bị ảnh hưởng tương tự, song những cú sốc về cầu dường như trầm trọng hơn đối với các ngành sản xuất chế tạo và dịch vụ khác hơn là ngành thương mại.
Thứ ba, dù phải gánh chịu những cú sốc tiêu cực như vậy, khối doanh nghiệp đã lựa chọn duy trì nhân viên/người lao động thông qua các biện pháp điều chỉnh tạm thời. Rất nhiều doanh nghiệp lựa chọn giảm giờ làm và tiền công, trong khi một số khác cho phép người lao động nghỉ phép có hoặc không có trả công. 15% số doanh nghiệp cho biết đã sa thải người lao động, song 8% số doanh nghiệp cũng đã tuyển dụng thêm lao động.
Thứ tư, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng các nền tảng số hóa để thích ứng với các cú sốc tiêu cực, trong đó một số ít đầu tư vào các giải pháp số hóa hoặc làm mới/nâng cấp danh mục sản phẩm của mình. Các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp trong ngành dịch vụ và doanh nghiệp tại địa bàn Hà Nội có tỷ lệ áp dụng nền tảng số cao hơn.
Được biết, hầu hết ứng dụng nền tảng số hiện tại tập trung vào các tính năng đầu - cuối như doanh số và phương thức thanh toán, ít phức tạp hơn và rẻ hơn so với những thay đổi về tính năng nghiệp vụ khác.
Thứ năm, bình quân, các doanh nghiệp dự kiến có tỷ lệ tăng trưởng doanh số bán là -27% và tăng việc làm -20%. Tốc độ tăng trưởng doanh số và việc làm cũng có nhiều bất định, và điều này có thể làm giảm mạnh đầu tư, việc làm và tăng trưởng trong tương lai. Dự báo tăng trưởng âm cho thấy các hoạt động kinh doanh có thể đã đình trệ trong thời gian dài.
Thứ sáu, khoảng 20 - 30% doanh nghiệp nhỏ, vừa và doanh nghiệp lớn đã tiếp cận được với hỗ trợ của Chính phủ. Có 2 nguyên nhân chính cản trở doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ này, một là họ không đủ điều kiện (45% số doanh nghiệp) và hai là họ không biết về chính sách hỗ trợ (34% số doanh nghiệp).