Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số

Nguyễn Thành Công
Nguyễn Thành Công Congnguyenthanhyb@gmail.com
Thứ Bảy, 15/11/2025 - 15:30

Sau bốn thập kỷ Đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã nhiều lần chứng minh năng lực vượt khó và vai trò "trụ đỡ" của nền kinh tế. Thế nhưng, khi bước vào kỷ nguyên số và kinh tế xanh, những động lực truyền thống đã không còn đủ sức đưa ngành nông nghiệp tiến nhanh, tiến mạnh và cạnh tranh toàn cầu. Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị được ví như "Khoán 10 của thế kỷ 21" đã mở ra một thời điểm bước ngoặt: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và dữ liệu.

Trong Bài 1 và Bài 2 của tuyến bài: "Từ Nghị quyết 57 đến cuộc cách mạng số trong nông nghiệp Việt Nam", chúng tôi đã phân tích những quan điểm đột phá của Nghị quyết 57 - tư duy đổi mới mở "đường băng thể chế" và đề xuất các giải pháp đột phá để công nghệ số tái cấu trúc lại toàn bộ lĩnh vực nông nghiệp.

Nhưng để những đột phá ấy thực sự đi vào đời sống, để chuyển đổi số trở thành sức mạnh nội sinh chứ không phải phong trào nhất thời, Việt Nam cần một nền tảng cốt lõi hơn bất kỳ công nghệ nào, đó là dữ liệu. Dữ liệu chính là "kho báu" của kỷ nguyên số, là tư liệu sản xuất mới, là sức mạnh cạnh tranh của mọi nền kinh tế hiện đại. Không có dữ liệu, sẽ không thể có nông nghiệp thông minh; không có dữ liệu, trí tuệ nhân tạo chỉ là những mô hình rỗng; không có dữ liệu, đổi mới sáng tạo sẽ mãi nằm trên giấy.

Đặc biệt với nông nghiệp, lĩnh vực chịu tác động đa chiều từ thiên nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng, giống, dịch bệnh, chuỗi cung ứng và thị trường thì dữ liệu không chỉ là công cụ, mà là điều kiện tồn tại của sản xuất thông minh, của truy xuất nguồn gốc, của dự báo mùa vụ, của tối ưu hóa chi phí - đầu vào, của nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng. Một hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp đồng bộ, minh bạch và liên thông sẽ giúp Việt Nam chuyển từ "nông nghiệp dựa vào kinh nghiệm" sang "nông nghiệp dựa trên tri thức", từ "lấy công làm lãi" sang "tự động hóa - chính xác - hiệu quả", từ "sản xuất theo mùa vụ" sang "quản trị theo dữ liệu" và từ "bị động với thị trường" sang "dự báo - điều hành theo thời gian thực".

Chính vì vậy, trong Bài 3 này, chúng tôi đặt vấn đề lớn hơn: Làm thế nào để kiến tạo hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp Việt Nam - nền tảng căn bản cho cuộc cách mạng số trong toàn ngành? Đây không chỉ là câu chuyện của công nghệ, mà là câu chuyện của thể chế, của thị trường, của sự phối hợp Nhà nước - doanh nghiệp - viện trường - nông dân và của tầm nhìn quốc gia đối với tương lai nền nông nghiệp.

Trong cuộc đối thoại này, ba góc nhìn - khoa học, chính sách và doanh nghiệp - hội tụ: GS.TSKH. Hồ Tú Bảo - nhà khoa học nổi tiếng trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và khoa học dữ liệu. Ông hiện là Giám đốc Phòng thí nghiệm Khoa học dữ liệu của Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán (VIASM) và Giám đốc Khoa học của Viện John von Neumann. Ông từng là Giáo sư tại Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản; GS.TS. Hoàng Văn Cường - Đại biểu Quốc hội, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước. Và doanh nhân, Anh hùng Lao động Thái Hương - Nhà sáng lập, Chủ tịch Hội đồng Chiến lược Tập đoàn TH, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia.

Họ không chỉ cung cấp tri thức, mà còn gợi mở con đường để dữ liệu trở thành "nguồn lực đột phá" cho nông nghiệp Việt Nam thời gian tới.

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 1.

- Thưa GS.TSKH. Hồ Tú Bảo, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị đã xác định nhiệm vụ, giải pháp cần làm giàu, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu. Ở góc nhìn của một nhà khoa học nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo và dữ liệu hơn 30 năm, theo Giáo sư, Nghị quyết số 57 đang tạo ra cơ hội lịch sử như thế nào cho nông nghiệp Việt Nam? Và theo Giáo sư, để biến dữ liệu thành tài nguyên - tư liệu sản xuất - nền tảng quản trị mới, điều căn bản nhất mà ngành nông nghiệp cần làm ngay là gì?

GS.TSKH. Hồ Tú Bảo: Có thể nói Nghị quyết số 57 là "khoán 10" của thế kỷ 21 cho nông nghiệp Việt Nam, tạo ra một cơ hội lịch sử cho lĩnh vực này khi nêu rõ nông nghiệp và môi trường là một trong những lĩnh vực chiến lược cần đột phá bằng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nói "cơ hội lịch sử" là nói đến thời điểm chúng ta phải thay đổi và có thời cơ để thay đổi do có thể phát triển và ứng dụng các công nghệ cao để gỡ các "nút thắt" lâu nay của ngành nông nghiệp.

Đó là các mục tiêu đẩy mạnh nông nghiệp thông minh, xanh và bền vững; là khuyến khích đầu tư vào công nghệ sinh học, công nghệ gen trong nông nghiệp; là cải cách thể chế, thu hút nguồn lực và đổi mới quản lý; là liên kết giữa nhà nước - viện trường - doanh nghiệp - người nông dân.

- Thưa Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường, ông có cho rằng, Nghị quyết số 57 sẽ tạo ra bước nhảy dài cho nông nghiệp, nhanh hơn, mạnh hơn và lan tỏa rộng hơn các lĩnh vực khác?

GS.TS. Hoàng Văn Cường: Nghị quyết số 57 thực sự là một trụ cột chiến lược để tạo ra đột phá phát triển bằng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cho toàn bộ nền kinh tế. Nhưng với nông nghiệp - lĩnh vực vốn là thế mạnh của Việt Nam và chứa đựng nhiều đặc trưng riêng biệt, tác động này sẽ đến nhanh hơn và sâu hơn.

Nông nghiệp là một "địa bàn đặc biệt" với dư địa ứng dụng công nghệ rất lớn. Những năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ. Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao không còn chỉ dựa vào máy móc cơ khí, mà sử dụng tự động hóa, cảm biến, công nghệ số để kiểm soát môi trường, dinh dưỡng, độ ẩm, ánh sáng. Drone - máy bay không người lái, robot phun thuốc, robot thu hoạch… đang trở nên phổ biến. Hệ thống quan trắc tự động, bản đồ số nông nghiệp, các nền tảng kết nối thị trường, dự báo mùa vụ… đều đang dần hình thành.

Tất cả những ứng dụng này chỉ có thể vận hành trên nền của dữ liệu, chuyển đổi số và các công nghệ thông minh, đúng với tinh thần của Nghị quyết số 57.

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 4.

Chính vì vậy, tôi cho rằng nông nghiệp có khả năng trở thành lĩnh vực đi đầu trong triển khai Nghị quyết số 57, thậm chí có thể tạo ra những kết quả sớm nhất và lan tỏa rộng nhất. Từ những đổi mới trong chuỗi giá trị nông nghiệp, các tác động tích cực sẽ lan sang chế biến, logistics, thương mại, xuất khẩu và cả các ngành dịch vụ liên quan.

Kỳ vọng trong thời gian tới, Nghị quyết số 57 sẽ giúp nông nghiệp Việt Nam bước vào giai đoạn sản xuất thông minh ở quy mô lớn; Tối ưu hóa chi phí - đầu vào, tăng mạnh năng suất và chất lượng; Gia tăng năng lực cạnh tranh quốc tế nhờ minh bạch dữ liệu, truy xuất nguồn gốc, đáp ứng tiêu chuẩn xanh - sạch - phát thải thấp; Hình thành thị trường dữ liệu nông nghiệp - một không gian phát triển hoàn toàn mới cho kinh tế số nông nghiệp.

Nếu được triển khai quyết liệt, Nghị quyết số 57 sẽ không chỉ thúc đẩy nông nghiệp phát triển hiện đại, mà còn tạo ra "hiệu ứng kéo" mạnh mẽ cho cả chuỗi ngành liên quan, qua đó đóng góp vào năng lực cạnh tranh và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế quốc gia.

- Thưa Anh hùng Lao động Thái Hương, với Nghị quyết số 57, Nghị quyết số 68 và các quyết sách chiến lược của Bộ Chính trị, bà cảm nhận ra sao về cơ hội vươn mình của doanh nghiệp, doanh nhân nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng?

Anh hùng Lao động Thái Hương: "Bộ tứ Nghị quyết trụ cột" do Bộ Chính trị ban hành gồm Nghị quyết số 57, Nghị quyết số 59, Nghị quyết số 66 và Nghị quyết số 68 đã tạo dựng nền móng chiến lược để đất nước cất cánh trong kỷ nguyên mới. Tiếp nối đó là Nghị quyết số 71, Nghị quyết số 72 và nhiều Nghị quyết chiến lược khác, hợp lực với "bộ tứ trụ cột" để hình thành một khung thể chế - chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. Đó là tầm nhìn chiến lược của người đứng đầu và là ý chí của cả hệ thống chính trị.

Nguồn lực trong xã hội nói chung và tầng lớp doanh nhân nói riêng của đất nước ta là rất lớn, có tâm, có tầm, đủ bản lĩnh, đủ tài để lãnh hội, để gánh vác trọng trách cùng đất nước. Mỗi chúng ta ai cũng có ước mơ và hoài bão. Nhưng chúng ta phải hun đúc, phải nuôi dưỡng để ước mơ, hoài bão đó thành khát vọng.

Thế giới hiện đại đã có những thành tựu vô cùng to lớn về khoa học công nghệ, khoa học quản trị, trí tuệ nhân tạo (AI)… "Bộ tứ Nghị quyết trụ cột" và các Nghị quyết hợp lực chiến lược đã nếu ở trên là những quyết sách, những cơ chế, chính sách phù hợp cho từng thời kỳ, cho từng ngành nghề, để dẫn dắt, để khích lệ, để tạo ra những cánh chim đầu đàn trong từng lĩnh vực, để biến khát vọng thành hiện thực, để tạo ra sức mạnh to lớn cho dân tộc, để dân tộc ta sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ từng mong muốn.

Điều quan trọng là cần tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với lợi thế của đất nước mình, đó là nông nghiệp, trong đó có kinh tế rừng, kinh tế biển, kinh tế đồng bằng. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng, cần chú ý vào kinh tế rừng nơi có tỷ lệ nghèo đói cũng nhiều, trải dài ở các vùng biên "phên dậu" của Tổ quốc.

Cần có chính sách để lôi kéo tầng lớp doanh nhân và những doanh nghiệp đủ Tâm - Trí - Lực vào lĩnh vực này, đi vào chế biến sâu, xây dựng chuỗi giá trị khép kín; Có chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; Đưa người nông dân vào một mắt xích trong chuỗi giá trị, dẫn dắt người nông dân xóa đói giảm nghèo bền vững, tiến tới làm giàu, thay đổi ngay trên mảnh đất của chính mình; Xây dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia, đạt chuẩn quốc tế cho từng sản phẩm...

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 5.

Nguyên tắc chung là ở chỗ, khi phát triển kinh tế ở lĩnh vực nào cũng cần tuân thủ mô hình kinh tế xanh, kinh tế tri thức, kinh tế tuần hoàn trên nền tảng phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các chính sách ngoài khích lệ, dẫn dắt còn phải tạo công bằng cho các thành phần kinh tế: Trong nước và ngoài nước, quốc doanh và tư nhân,…

Quan trọng nhất, ta cần tạo ra một môi trường đủ an toàn, an toàn ở đây bao gồm cả việc tạo hành lang pháp lý và các luật định phù hợp, thống nhất, không bị chồng chéo, tạo điều kiện tốt nhất hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển; để mọi tầng lớp trong xã hội nói chung và doanh nghiệp nói riêng cùng gánh vác trên vai sứ mệnh xây dựng đất nước ta giàu có và văn minh.

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 6.

- Dưới góc nhìn của Đại biểu Quốc hội, GS.TS. Hoàng Văn Cường đánh giá về tác động của thị trường dữ liệu nông nghiệp đối với ngành nông nghiệp và nền kinh tế như thế nào?

GS.TS. Hoàng Văn Cường: Bản thân dữ liệu nếu xét ở trạng thái thô, chỉ là những con số "chết". Nó không tự tạo ra giá trị. Nhưng khi được tích hợp vào hệ thống phân tích, mô hình hóa, các nền tảng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lập tức trở thành "mỏ vàng" tri thức, tạo ra thông tin, dự báo, cảnh báo và các gợi ý quyết sách có giá trị vượt trội.

Trong bối cảnh chúng ta nói rất nhiều về phát triển thông minh, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, thì không một mô hình nào có thể thành công nếu thiếu dữ liệu. Đặc biệt là với AI: AI chỉ mạnh khi được nuôi bằng dữ liệu lớn, đa dạng, chất lượng cao.

Nông nghiệp lại là lĩnh vực có vô số yếu tố biến động và chịu tác động từ thiên nhiên, thời tiết, khí hậu, thủy văn, dịch bệnh, sinh học… Vì vậy, dữ liệu trong nông nghiệp phong phú hơn, phức tạp hơn và có giá trị khai thác lớn hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác. Khi được tập hợp, chuẩn hóa và xử lý bằng công nghệ số, các dữ liệu này có thể tạo ra những giá trị vượt trội, mở đường cho: Sản xuất nông nghiệp thông minh; Dự báo mùa vụ, năng suất, dịch bệnh; Tối ưu hóa đầu vào - đầu ra; Giảm rủi ro và chi phí; Tăng mạnh năng suất và giá trị gia tăng…

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 7.

Chính vì thế, có thể nói nông nghiệp là "mảnh đất màu mỡ nhất" cho phát triển công nghệ số, AI và các mô hình kinh tế số. Dữ liệu nông nghiệp khi được tổ chức như một thị trường sẽ là nền tảng để biến tiềm năng này thành hiện thực.

Không chỉ dừng ở phạm vi nông nghiệp, thị trường hóa dữ liệu nông nghiệp còn mở rộng không gian phát triển ra quy mô toàn cầu. Từ thị trường truyền thống trong nước, dữ liệu nông nghiệp có thể kết nối tới các thị trường quốc tế, thị trường ngách, các hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo ra tác động lan tỏa rất mạnh cho toàn bộ nền kinh tế.

Vì vậy, việc đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng và phát triển thị trường dữ liệu nông nghiệp không chỉ là yêu cầu của ngành nông nghiệp, mà còn là động lực cho nhiều lĩnh vực khác của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần tạo nên sức bật mới cho nền kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên số.

- Là người tiên phong đưa tư duy "dữ liệu là tài nguyên - tư liệu sản xuất" vào nông nghiệp Việt Nam từ hơn 10 năm trước, điều gì khiến Anh hùng Lao động Thái Hương lựa chọn con đường phát triển kinh tế nông nghiệp dựa trên dữ liệu sớm đến như vậy? Và theo bà, đâu là "điểm khởi đầu" bắt buộc đối với doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn cùng Nhà nước xây dựng hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp quốc gia?

Anh hùng Lao động Thái Hương: Làm bất kỳ việc gì cũng phải bắt đầu từ tầm nhìn và sứ mệnh mà mình theo đuổi. Với tôi, ngay từ đầu, câu hỏi căn bản nhất luôn là: Làm thế nào để tạo ra những sản phẩm nông nghiệp thật sự tốt cho sức khỏe con người. Sự cố sữa nhiễm melamine ở Trung Quốc năm 2008 là cú thức tỉnh mạnh mẽ khiến tôi nhận ra một điều then chốt: Muốn có sản phẩm tốt thì phải có dữ liệu. Không thể quản trị cái mình không đo lường được. Dữ liệu phải hiện diện trong mọi mắt xích của sản xuất, từ giống, thức ăn, thú y, môi trường cho đến quản trị vận hành. Tôi cũng luôn tin rằng một sản phẩm nông nghiệp khi ra đời phải đạt được hai tiêu chí cốt lõi: Chi phí giá thành hợp lý và chất lượng đạt chuẩn quốc tế. Và để đạt được hai tiêu chí ấy, con đường tất yếu là áp dụng khoa học công nghệ, dữ liệu số và khoa học quản trị hiện đại - những thành tựu đã chứng minh hiệu quả trên toàn thế giới.

Khi thế giới bùng nổ các cuộc cách mạng công nghệ và cách mạng số, tôi quyết định đưa dữ liệu vào toàn bộ mô hình nông nghiệp của Tập đoàn TH. Ngay từ những ngày đầu, chúng tôi đã triển khai dự án chăn nuôi bò sữa đại công nghiệp theo chuỗi khép kín từ đồng cỏ đến bàn ăn. Trong trồng trọt, các chuyên gia lập trình thời điểm tưới, lượng nước và chế độ dinh dưỡng tối ưu cho từng loại cây làm thức ăn cho bò. Hệ thống tưới thông minh hoàn toàn tự động thực hiện chính xác từng thao tác mà không cần lao động thủ công. Chỉ cần vài máy nông nghiệp, chúng tôi có thể hoàn thành khối lượng công việc mà trước đây phải cần tới hàng trăm, thậm chí hàng nghìn lao động. Đó là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh của dữ liệu khi được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp.

Trong chăn nuôi, dữ liệu đóng vai trò trung tâm trong việc bảo đảm chất lượng sữa và sức khỏe vật nuôi. Sữa được vắt từ từng cá thể bò, đi qua hệ thống đường ống lạnh luôn duy trì ở nhiệt độ 2-4 độ C để bảo đảm an toàn tuyệt đối. Nếu hệ thống cảnh báo cho thấy lượng tế bào soma tăng bất thường, dấu hiệu bò có thể bị viêm vú sau vài ngày thì sữa của cá thể đó lập tức không được đưa vào tank lớn, và thiết bị vắt tự động tách khỏi bò để đưa cá thể đi điều trị.

Tương tự, nếu bò ăn không đủ khẩu phần dinh dưỡng đã được lập trình với khoảng 15 loại thức ăn để bảo đảm hàm lượng vi chất trong sữa, hệ thống cũng tự động loại sữa ra ngoài và yêu cầu bổ sung dinh dưỡng. Hệ thống còn phát hiện thời kỳ động dục để thú y bơm tinh đúng thời điểm, tránh tốn kém và nâng cao hiệu quả thụ thai. Những công nghệ này giúp chúng tôi kiểm soát chất lượng sản phẩm ở mức độ tối ưu nhất, đồng thời bảo đảm năng suất lao động và chi phí giá thành hợp lý.

Tất cả những điều ấy không thể làm được nếu không có dữ liệu. Tôi đã chấp nhận đầu tư hàng trăm triệu đô la để mua bản quyền những thành tựu khoa học công nghệ hàng đầu thế giới trong chăn nuôi và chế biến sữa. Điều đó xuất phát từ triết lý mà tôi luôn theo đuổi: TH là "True Happiness" - hạnh phúc đích thực. Với tôi, sữa tốt cho sức khỏe con người chính là hạnh phúc. Và để tạo ra hạnh phúc ấy, chúng tôi phải dám đầu tư, dám đi trước, dám theo đuổi đến cùng con đường dữ liệu.

Với các doanh nghiệp Việt Nam muốn tham gia xây dựng hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp quốc gia, điểm khởi đầu không nằm ở công nghệ hay máy móc, mà trước hết là tư duy. Doanh nghiệp phải coi dữ liệu là tài nguyên, là tư liệu sản xuất, là nền tảng để tạo ra chất lượng, năng suất và giá thành cạnh tranh. Phải sẵn sàng đầu tư, sẵn sàng minh bạch dữ liệu, sẵn sàng tham gia chuỗi giá trị chung với Nhà nước. Khi doanh nghiệp có tư duy khoa học, tư duy dữ liệu và tư duy quản trị hiện đại, khi họ coi chất lượng là danh dự, hiệu quả là tiêu chuẩn và cộng đồng là mục tiêu, thì khi ấy chúng ta mới có thể cùng nhau kiến tạo một nền nông nghiệp hiện đại, xanh, bền vững và có sức cạnh tranh toàn cầu.

- Theo GS. TSKH. Hồ Tú Bảo, để biến dữ liệu thành tài nguyên - tư liệu sản xuất - nền tảng quản trị mới, điều căn bản nhất mà ngành nông nghiệp cần làm ngay là gì?

GS.TSKH. Hồ Tú Bảo: Để biến dữ liệu thành tài nguyên - tư liệu sản xuất - nền tảng quản trị mới, điều căn bản nhất mà ngành nông nghiệp phải làm ngay là phải có được dữ liệu và dữ liệu chất lượng. Đặc biệt, cần chuẩn bị năng lực để khai thác được nguồn dữ liệu đó.

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 8.

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 9.

- Nghị quyết số 57 và các nghị quyết chiến lược gần đây đều nhấn mạnh yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên công nghệ số, AI, dữ liệu lớn và tự động hóa. Ở góc độ khoa học dữ liệu, theo GS. TSKH. Hồ Tú Bảo, đâu là những bài toán nông nghiệp Việt Nam có thể giải được ngay và đâu là những bài toán chỉ có thể giải được nếu chúng ta có dữ liệu chuẩn hóa và hệ thống dữ liệu thống nhất từ trung ương đến địa phương?

GS.TSKH. Hồ Tú Bảo: Những bài toán nông nghiệp có thể giải được ngay là những bài toán chỉ cần dữ liệu nhỏ, dữ liệu của mỗi địa phương, dữ liệu cảm biến IoT, ảnh chụp, dữ liệu doanh nghiệp… như chẩn đoán sâu bệnh và sức khoẻ cây trồng, vật nuôi; dự báo năng suất ở quy mô trang trại; tối ưu tướibón - phun trong nhà kính hay trang trại công nghệ cao; phân loại chất lượng nông sản…

Những bài toán chiến lược, quy mô lớn, không thể làm rời rạc và chỉ có thể giải được khi chúng ta có hệ thống dữ liệu nông nghiệp "quốc gia". Điều đó đòi hỏi sự tích hợp của nhiều nguồn dữ liệu khác nhau (thời tiết, thị trường, sản xuất) trên phạm vi rộng (tỉnh, vùng, quốc gia) và phải được chuẩn hóa. Đây chính là nguồn dữ liệu Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần tạo ra và có trong Trung tâm dữ liệu quốc gia.

Những bài toán tiêu biểu ở đây là cảnh báo sớm dịch bệnh quy mô quốc gia, quy hoạch thổ nhưỡng, cây trồng toàn quốc, tính toán phát thải nhà kính nông nghiệp chính xác, truy xuất nguồn gốc theo chuẩn quốc gia, tối ưu logistics nông nghiệp toàn quốc, phân tích năng suất và hiệu quả theo toàn ngành…

Ví dụ như muốn trả lời câu hỏi "ngành lúa Việt Nam năng suất thấp do giống, đất hay kỹ thuật?", ta cần dữ liệu chuẩn từ mọi tỉnh, mọi phân vùng.

- Là người tiên phong và kiên định xây dựng mô hình nông nghiệp xanh - công nghệ cao - tuần hoàn, đồng thời là người tham gia kiến tạo Hệ sinh thái Dữ liệu Quốc gia trong nông nghiệp, theo Anh hùng Lao động Thái Hương, trọng tâm chiến lược mà Việt Nam phải làm ngay từ 2025-2027 để vận hành hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp là gì?

Anh hùng Lao động Thái Hương: Việc đầu tiên và quan trọng nhất là đất nước phải xây dựng được một hệ thống dữ liệu quốc gia cho từng ngành, từng lĩnh vực. Cây trồng, vật nuôi, sức khỏe, thực phẩm… tất cả phải có bộ dữ liệu thống nhất do Nhà nước công bố và quản lý. Dữ liệu ấy phải được thu thập, cập nhật, chuẩn hóa, khai thác và sử dụng theo một hệ quy chuẩn và quy trình rõ ràng. Đây là điều kiện tiên quyết để dữ liệu thực sự trở thành tư liệu sản xuất sống còn của quốc gia. Và khi đã là tư liệu sản xuất, dữ liệu cũng phải được bảo vệ bằng một hệ thống pháp luật tương xứng.

Thực tế cho thấy, một mình doanh nghiệp không thể làm nên hệ sinh thái dữ liệu. Doanh nghiệp có thể tiên phong, dám thử nghiệm, dám đầu tư, nhưng để dữ liệu trở thành nền tảng phát triển nông nghiệp quốc gia thì Nhà nước phải đồng hành, cùng triển khai từng bước một cách khoa học. Bởi khó khăn lớn nhất không phải là máy móc hay công nghệ; cái khó nhất chính là "dữ liệu ban đầu", thứ mà nếu không được thu thập, chuẩn hóa, tích lũy một cách tập trung thì doanh nghiệp không thể xây dựng nổi quy trình sản xuất hiện đại. Đã nói đến nông nghiệp thì dữ liệu phải được coi là vấn đề tổng quan của quốc gia. Dữ liệu phải được số hóa, chuẩn hóa và hình thành một thể thống nhất; sau đó, thể chế phải cụ thể hóa cho từng ngành nghề, từng giai đoạn thì mới có thể thúc đẩy phát triển.

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 10.

Nhà khoa học phải được khuyến khích để tạo ra bằng sáng chế, sản phẩm; doanh nghiệp phải có cơ chế để tiếp cận và ứng dụng các thành tựu ấy. Không thể để doanh nghiệp tự mình đi mua công nghệ nước ngoài. Chia sẻ dữ liệu và kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp chính là con đường ngắn nhất để đưa công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam.

Dữ liệu là tài nguyên mở, cần được chia sẻ và lan tỏa, nhưng đồng thời cũng là tài sản của doanh nghiệp, phải được tôn trọng và bảo vệ.

Chúng ta phải xây dựng nền tảng dữ liệu quốc gia về nông nghiệp và sản xuất, hình thành hệ thống chia sẻ và kết nối dữ liệu minh bạch giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nhà nông, nhà đầu tư và nhà phân phối. Đây là cột trụ để vận hành nền kinh tế dữ liệu trong nông nghiệp. Phải ứng dụng dữ liệu và công nghệ vào quản lý và vận hành chuỗi cung ứng, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giảm thiểu chi phí trong toàn bộ quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng. Hệ sinh thái dữ liệu phải hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh quốc tế cho nông - lâm - thủy - hải sản Việt Nam; đồng thời thúc đẩy một nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn, bảo vệ môi trường và mang lại thịnh vượng dài hạn cho quốc gia.

- Để dữ liệu thực sự trở thành một tư liệu sản xuất mới của nông nghiệp đúng tinh thần thể chế hóa Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị, theo GS. TS. Hoàng Văn Cường, chúng ta cần bắt đầu từ đâu? Những cơ chế nào phải được ưu tiên hoàn thiện?

GS. TS. Hoàng Văn Cường: Để dữ liệu thực sự trở thành tư liệu sản xuất mới, đóng góp trực tiếp vào tăng năng suất và tạo ra giá trị gia tăng cho nông nghiệp, theo tôi, việc quan trọng nhất là phải xây dựng một hệ thống dữ liệu chuẩn hóa và liên thông.

Thứ nhất, cần chuẩn hóa và đồng bộ dữ liệu. Dữ liệu muốn sử dụng được phải đúng, sạch, đầy đủ, liên tục. Vì vậy, chúng ta cần khung quy định về thu thập, quản lý, chia sẻ và liên thông dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và các chủ thể trong chuỗi giá trị nông nghiệp. Đây là nền tảng để mọi công nghệ số hay mô hình AI phát huy hiệu quả.

Thứ hai, xây dựng hạ tầng công nghệ để "nuôi dưỡng" dữ liệu. Chúng ta cần đầu tư mạnh vào: Hệ thống cảm biến, thiết bị thu thập dữ liệu tự động trong sản xuất nông nghiệp; Công nghệ quan trắc môi trường, khí tượng - thủy văn, sinh học; Hệ thống kết nối, lưu trữ, điện toán đám mây; Các nền tảng mở để chia sẻ và khai thác dữ liệu. Nói cách khác, muốn có dữ liệu tốt, phải có hạ tầng công nghệ tốt.

Thứ ba, cần khuôn khổ pháp lý bảo vệ dữ liệu và an ninh mạng. Khi dữ liệu trở thành tài sản, trở thành hàng hóa, chúng ta phải có luật để: Bảo vệ dữ liệu cá nhân; Bảo vệ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của doanh nghiệp; Đảm bảo an toàn thông tin và an ninh mạng; Quy định quyền sở hữu, quyền sử dụng và trách nhiệm chia sẻ dữ liệu. Không có hành lang pháp lý thì dữ liệu không thể trở thành tư liệu sản xuất một cách bền vững.

Thứ tư, phải có cơ chế định giá và thị trường hóa dữ liệu. Dữ liệu muốn trở thành tài nguyên thật sự phải có giá trị thị trường và được giao dịch minh bạch. Vì thế, cần thiết lập cơ chế đánh giá giá trị dữ liệu, tiêu chuẩn về chất lượng dữ liệu, cũng như các nền tảng giao dịch, mua bán, khai thác dữ liệu. Khi đó, thị trường dữ liệu nông nghiệp mới có thể hình thành đúng nghĩa.

- Một trong những thành tố quyết định thành công của Nghị quyết số 57 là hình thành được "hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp" gắn kết giữa: Nhà nước - doanh nghiệp - nhà khoa học - nông dân. Nhưng thực tế, dữ liệu đang phân tán, thiếu chuẩn, thiếu cơ chế mở. Theo Giáo sư, thách thức lớn nhất khi xây dựng hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp là gì? Và theo kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam cần bắt đầu từ đâu để có thể hình thành một "hệ điều hành dữ liệu nông nghiệp" vừa mở, vừa an toàn, vừa thúc đẩy sáng tạo trong 5-10 năm tới?

GS.TSKH. Hồ Tú Bảo: Theo tôi, thách thức lớn nhất là chúng ta đang thiếu một chuẩn dữ liệu thống nhất và mô hình vận hành chung giữa trung ương - tỉnh -- doanh nghiệp. Điều này xảy ra từ việc dữ liệu phân tán; thu thập không theo chuẩn nên không kết nối được; thiếu quy trình vận hành dữ liệu xuyên cấp; không có cơ chế tạo ra "động lực" để địa phương và doanh nghiệp chia sẻ dữ liệu; và dữ liệu còn thiếu độ tin cậy.

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 11.

Hệ sinh thái nông nghiệp cần được xây dựng với dữ liệu nông nghiệp chuẩn quốc gia, trong đó có các hệ thống dữ liệu lõi (như bản đồ thống nhất quốc gia về thổ nhưỡng, đất - nước - khí hậu, dữ liệu định danh sản xuất, dữ liệu sản xuất - mùa vụ - năng suất, dữ liệu thị trường, giá nông sản, logistics...), với cơ chế "chia sẻ dữ liệu có lợi ích" và với các nền tảng khai thác dữ liệu dùng chung quốc gia.

Các cơ sở dữ liệu nông nghiệp cần phải xây dựng theo khung kiến trúc dữ liệu, khung quản trị dữ liệu và từ điển dữ liệu quy định chung của Nhà nước. Dữ liệu nông nghiệp quốc gia phải tiến đến "đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung".

Cần bắt đầu từ chuẩn dữ liệu, sau đó mới đến nền tảng; bắt đầu từ ngành trọng điểm, sau đó mở rộng hệ sinh thái.

- Với vai trò là Đại biểu Quốc hội, GS.TS. Hoàng Văn Cường đánh giá như thế nào về tiến trình thể chế hóa Nghị quyết số 57 trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là đối với thị trường dữ liệu?

GS.TS. Hoàng Văn Cường: Chúng ta đều biết rằng dữ liệu là nền tảng cốt lõi để phát triển trí tuệ nhân tạo, điều hành thông minh và chuyển đổi số. Nhưng dữ liệu không tự nhiên xuất hiện. Nó phải được thu thập - xử lý - lưu trữ - truyền dẫn - tổng hợp theo một quy trình khoa học, liên tục và có chuẩn chung.

Trong nhiều năm, các hoạt động này ở nước ta vẫn mang tính thủ công, rời rạc, thiếu liên thông giữa các cơ quan, thiếu hạ tầng công nghệ và thiếu cơ chế bắt buộc chia sẻ dữ liệu. Việc thể chế hóa Nghị quyết số 57 trong nông nghiệp vì thế phải bắt đầu từ việc thiết lập một kỷ luật dữ liệu mới.

Trước hết, cần ban hành các quy định thống nhất về chuẩn hóa, kết nối và chia sẻ dữ liệu; biến việc liên thông dữ liệu trở thành yêu cầu bắt buộc, không còn làm theo kiểu tự phát như trước đây.

Bài 3: Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp - nền tảng cho cuộc cách mạng số- Ảnh 12.

Cần đầu tư đồng bộ vào hệ sinh thái công nghệ để vận hành dữ liệu, bao gồm: Thiết bị quan sát và thu thập dữ liệu tự động trong sản xuất và môi trường nông nghiệp; Hệ thống truyền dẫn, lưu trữ, điện toán đám mây; Công cụ bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu.

Ngoài ra, cần hình thành cơ chế giám sát, đánh giá và vận hành dữ liệu theo chuẩn mới, bảo đảm dữ liệu được cập nhật liên tục, đáng tin cậy và sẵn sàng cho AI, phân tích thông minh và điều hành số.

Nói cách khác, thể chế hóa Nghị quyết số 57 trong nông nghiệp trước hết phải tạo ra một hạ tầng dữ liệu thống nhất, được vận hành bằng công nghệ hiện đại và được bảo vệ bằng khuôn khổ pháp lý rõ ràng. Khi đó, dữ liệu mới thực sự trở thành nền tảng của chuyển đổi số nông nghiệp.

Nhìn lại ba cuộc đối thoại trải dài trong tuyến bài: "Từ Nghị quyết 57 đến cuộc cách mạng số trong nông nghiệp Việt Nam", có thể thấy một tinh thần xuyên suốt: Nông nghiệp Việt Nam đang bước vào một thời đại hoàn toàn mới, nơi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và dữ liệu không còn là lựa chọn, mà là lối đi duy nhất để bứt phá. Từ những tư tưởng mang tính "mở trần tư duy" trong Bài 1, đến các giải pháp tái cấu trúc mạnh mẽ bằng công nghệ số trong Bài 2 và cuối cùng là hệ sinh thái dữ liệu - nền tảng tối quan trọng của cuộc cách mạng số trong Bài 3, chúng ta đã nhìn thấy rõ con đường nông nghiệp Việt Nam phải đi để hội nhập, cạnh tranh và vươn lên trong kỷ nguyên số.

Nghị quyết số 57 và các quyết sách chiến lược của Bộ Chính trị đã phác thảo một tầm nhìn lớn, đặt ra một sứ mệnh mới cho nông nghiệp nước nhà: Từ một ngành dựa vào kinh nghiệm, chuyển sang một ngành dựa trên tri thức; từ giá trị thấp, chuyển sang sản xuất xanh - sạch - phát thải thấp - truy xuất nguồn gốc; từ sản xuất đơn lẻ, sang vận hành trên nền dữ liệu quốc gia, dữ liệu thời gian thực, dữ liệu minh bạch. Và những điều tưởng như xa vời ấy lại bắt đầu từ những hành động rất cụ thể: Thu thập dữ liệu đúng cách; chuẩn hóa dữ liệu; liên thông dữ liệu; bảo vệ dữ liệu; chia sẻ dữ liệu; vận hành dữ liệu bằng thể chế, công nghệ và thị trường.

Hệ sinh thái dữ liệu nông nghiệp vì thế không chỉ là một nền tảng kỹ thuật. Nó là một chiến lược phát triển quốc gia, là "hệ điều hành" của nông nghiệp hiện đại, là điều kiện để Việt Nam bước vào quỹ đạo sản xuất thông minh và kinh tế số.

Chúng tôi trân trọng cảm ơn GS.TSKH. Hồ Tú Bảo, GS.TS. Hoàng Văn Cường và Anh hùng Lao động Thái Hương đã phân tích sâu sắc và cung cấp những trải nghiệm thực tiễn vô cùng quý giá. Ba tiếng nói - khoa học, chính sách và thực tiễn đã tạo nên một tam giác tri thức hoàn chỉnh, giúp phác họa rõ ràng hơn con đường phát triển nông nghiệp Việt Nam.

Khép lại chuyên đề, chúng tôi hy vọng những phân tích, đối thoại và gợi mở trong chuyên đề này sẽ góp phần lan tỏa tinh thần Nghị quyết số 57; khích lệ cộng đồng doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách và người nông dân cùng chung tay kiến tạo một nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại, xanh, tuần hoàn, dựa trên khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo và dữ liệu.

Một kỷ nguyên mới đang mở ra. Nông nghiệp Việt Nam không chỉ đứng trước cơ hội chuyển đổi, mà đứng trước cơ hội bứt phá. Tương lai thuộc về những quốc gia biết khai thác sức mạnh của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và dữ liệu. Việt Nam hoàn toàn có thể là một trong số đó.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top