Aa

Cách tốt nhất để “giải cứu” những mảnh ruộng hoang

Thứ Năm, 19/12/2019 - 06:06

Những “bờ xôi ruộng mật” rơi vào cảnh hoang hóa ngày càng nhiều trong khi các doanh nghiệp lại đang “khát” đất làm cánh đồng mẫu lớn. Lý do là còn những khoảng trống pháp lý cho thị trường chuyển nhượng đất nông nghiệp.

Theo xu thế phát triển, khu vực công nghiệp, dịch vụ sẽ rút ngày càng nhiều hơn lao động nông nghiệp; đồng nghĩa với việc ngày càng có thêm nhiều hộ dân được giao ruộng đất nhưng không còn nhu cầu sử dụng. 

Đất nông nghiệp còn nhiều, tiềm năng của ngành nông nghiệp còn lớn, nhưng người nông dân lại không thể làm giàu trên mảnh ruộng của mình mà phải chọn cách “tha hương”. 

Đó là thực tế nhức nhối mà ngành nông nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt. Và có lẽ để những “hạt gạo” vươn khỏi “làng ta” thì buộc phải có những giải pháp cứu lấy những cánh đồng đang bị đóng băng, bị bỏ lại phía sau dòng người ly hương lên thành phố.

Nghịch lý người cần đất không có, người có đất không cần

Các chuyên gia cho rằng, thực tế đất đai vẫn bị “trói chặt” vào người nông dân nên đang tạo ra một nghịch lý rằng, người cần đất thì không có, người có đất thì không cần, nhiều nơi, đất nông nghiệp bị bỏ hoang, lãng phí.

Thu nhập từ nông nghiệp hiện còn thấp, bình quân chung cả nước mới đạt khoảng 47 triệu đồng/người/ năm. Điều này khiến nông dân có xu hướng giảm diện tích đất sử dụng, người dân không thiết tha với sản xuất nông nghiệp.

Một thống kê cho thấy, tỷ lệ bỏ hoang đất nông nghiệp đã tăng từ 1,7%, vào năm 2014, lên 3,8%, vào năm 2016; đồng thời, diện tích sử dụng đất bình quân/hộ giảm 0,9%, trong giai đoạn 2014-2016.

Tại một số tỉnh miền Bắc như Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Vĩnh Phúc…, tình trạng các thửa ruộng, cánh đồng bị bỏ hoang đang ngày càng tăng. Việc ruộng đất bị bỏ hoang có mẫu số chung là do tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chi phí lớn nhưng thu nhập thấp dẫn đến việc nhiều nông dân chán ruộng. Và trên thực tế, nhiều hộ dân tuy không “ly hương” nhưng đã “ly nông”, bỏ việc đồng áng chuyển sang kinh doanh hoặc tìm việc khác.

Tưởng chừng như việc người nông dân không còn mặn mà với đồng ruộng là cơ hội để các doanh nghiệp dễ dàng” gom” đất để đầu tư những dự án nông nghiệp quy mô lớn, công nghệ cao nhưng thực tế thì ngược lại. Việc đàm phán với người nông dân nhằm tích tụ ruộng đất vốn không hề dễ dàng. Nguyên nhân sâu xa xuất phát từ tâm lý “mảnh đất cắm dùi” của người nông dân, kể cả khi ruộng đất không còn nuôi sống họ, họ vẫn muốn giữ cho bằng được.

Cánh đồng bỏ hoang tại Vĩnh Phúc.

Theo nghiên cứu của Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn, hiện nay, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người ở Việt Nam chỉ đạt 0,25ha, trong khi trên thế giới là 0,52ha và khu vực là 0,36ha. Nền nông nghiệp Việt Nam được phát triển chủ yếu dựa vào khoảng 10 triệu hộ nông dân cá thể với trên 76 triệu thửa và mảnh ruộng nhỏ lẻ, phân tán. Đất đai manh mún khiến việc tích tụ cánh đồng mẫu lớn gặp khó khăn.

Do vậy, số lượng doanh nghiệp nông nghiệp tăng nhưng vẫn chỉ chiếm khoảng 1,6% tổng số doanh nghiệp cả nước. Đặc biệt, trong đó, có trên 90% là doanh nghiệp nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ, với 10 - 50 lao động. Doanh thu bình quân của các doanh nghiệp nông nghiệp chỉ đạt 3,6 tỷ đồng/năm.

Theo đánh giá của TS. Nguyễn Đức Thành, đại diện cơ quan điều phối Liên minh Nông nghiệp, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR): “Đây là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc phát triển nền nông nghiệp hữu cơ, hiện đại và bền vững trên cơ sở hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp. Đặc biệt là các tập đoàn kinh tế với các hộ nông dân xây dựng cánh đồng lớn, vùng sản xuất tập trung công nghệ cao dưới tác động của thị trường, công nghiệp, hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu”.

Theo các chuyên gia, từ nhiều năm nay, Nhà nước đã có chủ trương tích tụ và tập trung ruộng đất, nhưng kết quả không đạt được mục tiêu kỳ vọng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp chưa phát triển, vẫn còn các bất cập trong chính sách đất đai trong nông nghiệp.

“Chính sách đất đai trong nông nghiệp hiện nay đang là rào cản lớn đối với nông nghiệp hàng hóa. Dù quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, nhưng diện tích đất nông nghiệp vẫn còn rất lớn, nhất là đất lúa, nhưng thu nhập từ canh tác trên đất nông nghiệp ngày càng thấp khiến nhiều nông dân không thiết tha với ruộng đất”,  TS. Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn khẳng định.

Thu nhập từ đồng ruộng manh mún không đảm bảo cuộc sống cho người nông dân.

Khảo sát của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp - nông thôn cũng cho thấy, chuyển nhượng quyền sử dụng đất là nhu cầu của thị trường, song lại đang gặp rất nhiều rào cản.

Rào cản, vướng mắc lớn nhất là chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa người dân với doanh nghiệp, nguyên nhân là khung giá đất không còn phù hợp với giá thị trường, thiếu hồ sơ đất, phải xin ý kiến nhiều bộ, ban, ngành cho dự án đầu tư dù đã được phê duyệt trong vùng đầu tư, chi phí cao…

Theo Luật Đất đai hiện tại, doanh nghiệp ngoài nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, nên chỉ có cách tiếp cận bằng việc thuê đất. Nhưng việc doanh nghiệp thuê đất trực tiếp của người dân cũng đang rất khó khăn do chi phí giao dịch cao, rủi ro lớn cho cả 2 bên, cần hỗ trợ từ Nhà nước.

Thời gian qua, một số địa phương đã có hình thức mới: Nhà nước thuê đất của dân, sau đó cho doanh nghiệp thuê lại (Hà Nam). Tuy nhiên, hình thức này thiếu sự bảo đảm của hành lang pháp lý, rủi ro cao nếu doanh nghiệp không thực hiện hợp đồng.

Ngoài ra, theo TS. Nguyễn Hữu Thọ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Luật Đất đai không cho phép xây dựng các công trình kiên cố phục vụ sản xuất trên đất lúa, trong khi sản xuất nông nghiệp quy mô lớn rất cần xây dựng những kho bãi diện tích lớn, khu nông nghiệp công nghệ cao cũng cần phải có quỹ đất lớn… 

“Quy định như vậy rõ ràng đang cản trở mục tiêu mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Và như vậy, doanh nghiệp họ không mặn mà”, ông Thọ nói.

Các chuyên gia nhận định, hành lang pháp lý chưa đầy đủ là lý do khiến đất nông nghiệp manh mún, thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hoạt động dồn điền đổi thửa diễn ra kém sôi động.

Do vậy, nếu không có những giải pháp can thiệp kịp thời thì nghịch lý người có đất thì bỏ hoang, người cần đất thì khoanh tay đứng nhìn vẫn sẽ còn tồn tại, đồng nghĩa với việc, ngành nông nghiệp khó có thể tăng trưởng tốt, tạo ra giá trị.

Nên coi đất nông nghiệp là hàng hóa, khai thông thị trường chuyển nhượng

Trước thực tế trên, theo TS. Bùi Hải Thiêm, Viện Nghiên cứu Lập pháp của Quốc hội, Nhà nước nên quy định chỉ sử dụng một hình thức là thuê đất, bãi bỏ quy định về thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp, xóa bỏ sự phân biệt về quyền được cho các chủ thể sử dụng đất. Bên cạnh đó, thay thế quyền chuyển đổi và quyền chuyển nhượng bằng quyền mua bán. Đặc biệt, cần bãi bỏ hoặc mở rộng hạn điền trước khi chính thức sửa đổi Luật Đất đai.

“Luật Đất đai mới nên thay thế quyền chuyển đổi và quyền chuyển nhượng đất nông nghiệp bằng quyền mua bán, xây dựng các trung tâm hỗ trợ chuyển giao đất nông nghiệp để tạo thuận lợi cho quá trình tập trung, tích tụ ruộng đất theo nhiều hình thức (chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn hợp tác…), đồng thời thiết lập hệ thống quản lý điện tử cung cấp thông tin số hóa về quyền sử dụng đất và giao dịch nhằm minh bạch thị trường đất nông nghiệp”, TS. Thiêm bổ sung thêm.

Khai thông thị trường chuyển nhượng quyền sự dụng đất nông nghiệp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu đối với ngành nông nghiệp Việt.

Đại diện viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp - nông thôn cũng cho rằng, các chính sách cần điều chỉnh theo hướng bỏ hạn điền, giới hạn đối tượng giao dịch. Bên cạnh đó, cần có cơ sở dữ liệu, thông tin hồ sơ đất đai rõ ràng. Đồng thời, phải điều chỉnh vấn đề định giá đất, thủ tục giao dịch, thẩm định, xử lý vấn đề đất bỏ hoang, sử dụng kém hiệu quả, gắn với thu hút đầu tư vào nông nghiệp…

Còn theo PGS. TS. Doãn Hồng Nhung, Khoa Luật (Đại học Quốc gia Hà Nội), quy định về tích tụ đất đai rất cần thiết khuyến khích để người nông dân yêu mến ruộng đồng, khi có doanh nghiệp đầu tư, tạo ra chuỗi giá trị nông sản. Tích tụ đất đai tốt sẽ biến ước mơ của người nông dân thành hiện thực, tạo điều kiện cho họ được làm việc trên những cánh đồng công nghệ mới. Hiện đại hóa nông nghiệp, áp dụng công nghệ 4.0 vào ruộng đồng để bớt vất vả cho người nông dân, nhưng lại có thể canh tác, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản nông sản sau thu hoạch để người nông dân làm giàu trên chính mảnh đất quê hương, nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển kinh tế nông thôn.

Liên quan đến sửa đổi chính sách tích tụ ruộng đất, bà Nguyễn Thị Kim Anh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay, trong khi chờ đợi sửa Luật Đất đai 2013, Chính phủ đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định về vấn đề tập trung, tích tụ đất đai cho sản xuất nông nghiệp cũng như sửa ba nghị định liên quan khác đến Luật Đất đai 2013.

Theo dự thảo Nghị định về vấn đề tập trung, tích tụ đất đai cho sản xuất nông nghiệp, có 5 phương thức tập trung, tích tụ đất nông nghiệp: Dồn điền, đổi thửa; Thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp; Liên kết, hợp tác để tổ chức sản xuất nông nghiệp; Nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp; Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp.

Tiêu chí xác định nhà đầu tư tham gia tập trung, tích tụ đất nông nghiệp để tổ chức sản xuất nông nghiệp đối với với hộ gia đình, cá nhân là: Quy mô từ 2ha đến không quá hạn mức nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và phải có phương án sản xuất, kinh doanh từ 03 năm trở lên. Đối với tổ chức kinh tế, quy mô diện tích gấp từ 20 lần hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định trở lên và có dự án đầu tư dài hạn từ 05 năm trở lên, có phương án phục hồi đất nông nghiệp sau khi kết thúc dự án.

Nghị định cũng quy định cơ chế, chính sách khuyến khích tập trung, tích tụ đất nông nghiệp. Theo đó, Chính phủ sẽ cho phép nhà đầu tư được chuyển mục đích một phần diện tích đất nông nghiệp, nhưng không quá 5% tổng diện tích thực hiện dự án để xây dựng công trình hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp theo dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, phê duyệt và tối đa không quá 5000m2. UBND cấp huyện, cấp xã làm đầu mối thực hiện việc thuê quyền sử dụng đất hoặc nhận ủy quyền của người sử dụng đất để tạo lập quỹ đất nông nghiệp sau đó cho nhà đầu tư có nhu cầu thuê đất hoặc thuê lại đất để tổ chức sản xuất nông nghiệp./.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top