Làm trước 654km, đi qua 13 tỉnh/thành
Đây là một trong những nội dung chính trong Tờ trình số 487 “Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020” do Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Trương Quang Nghĩa thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc báo cáo để Quốc hội xem xét thông qua chủ trương đầu tư.
Theo báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải, Quốc lộ 1 hiện nay đã được đầu tư mở rộng 4 làn xe, năng lực có thể đáp ứng được khoảng 35.000 xe con tiêu chuẩn/ngày đêm.
Theo tính toán, nếu không đầu tư đường bộ cao tốc thì đến khoảng năm 2020 nhu cầu vận tải trên các đoạn Nam Định-Hà Tĩnh, Quảng Trị-Thừa Thiên Huế, Đồng Nai-Khánh Hòa vượt quá năng lực của tuyến Quốc lộ 1; đến khoảng năm 2025, nhu cầu vận tải trên các đoạn Hà Tĩnh-Quảng Trị, đoạn Thừa Thiên Huế-Đà Nẵng, Quảng Ngãi-Khánh Hòa vượt quá năng lực của tuyến Quốc lộ 1.
Trong Tờ chính, Chính phủ cũng đưa ra lộ trình dự kiến các đoạn tuyến được đầu tư trong giai đoạn 2017-2020 có tổng chiều dài 654km (bổ sung thêm dự án cầu Mỹ Thuận 2 và chưa tiến hành mở rộng từ 2 làn lên 4 làn xe đối với đoạn La Sơn-Túy Loan), giảm 59km so với phương án cũ (713km).
Cụ thể, giai đoạn từ năm 2017-2020 đầu tư và đưa vào khai thác các đoạn Cao Bồ (Nam Định)-Bãi Vọt (Hà Tĩnh), Cam Lộ (Quảng Trị)-La Sơn (Thừa Thiên-Huế), Nha Trang (Khánh Hòa)-Dầu Giây (Đồng Nai) và cầu Mỹ Thuận 2.
Giai đoạn 2021-2025 đầu tư và đưa vào khai thác các đoạn Bãi Vọt-Cam Lộ, Quảng Ngãi-Nha Trang và mở rộng đoạn La Sơn-Túy Loan lên thành quy mô 4 làn xe; giai đoạn sau 2025 đầu tư và đưa vào khai thác đoạn Cần Thơ-thành phố Cà Mau.
Dựa trên kết quả dự báo nhu cầu vận tải, năng lực của Quốc lộ 1, hiệu quả đầu tư, khả năng cân đối nguồn lực, giai đoạn 2017-2020 ưu tiên đầu tư các đoạn Cao Bồ-Bãi Vọt, dài khoảng 221km, Cam Lộ-La Sơn dài khoảng 102km, Khánh Hòa-Đồng Nai dài khoảng 324km, cầu Mỹ Thuận 2 và đường hai đầu cầu dài khoảng 7km. Đối với các đoạn còn lại, căn cứ vào nhu cầu vận tải và khả năng cân đối nguồn lực, Chính phủ sẽ triển khai đầu tư giai đoạn sau năm 2020.
Đề cập đến phương án đầu tư, giai đoạn 2017-2020 đầu tư khoảng 654km, chia thành 11 dự án thành phần đi qua 13 tỉnh, thành (Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tiền Giang và Vĩnh Long), gồm 8 dự án thuộc các đoạn Mai Sơn (Ninh Bình)-Bãi Vọt (Hà Tĩnh) và Nha Trang (Khánh Hòa)-Dầu Giây (Đồng Nai) đầu tư theo hình thức PPP, loại hợp đồng BOT.
Ba dự án thành phần gồm đoạn Cao Bồ-Mai Sơn, Cam Lộ-La Sơn, cầu Mỹ Thuận 2 sẽ được đầu tư theo hình thức đầu tư công, sau khi hoàn thành sẽ nhượng quyền thu giá dịch vụ, nguồn vốn thu được sẽ nộp ngân sánh Nhà nước và đầu tư các đoạn tiếp theo.
“Ngốn” gần 120.000 tỷ đồng, thi công xong trong 3 năm
Theo tính toán sơ bộ, tổng mức đầu tư giai đoạn 2017-2020 khoảng 118.716 tỷ đồng (so với phương án cũ là 130.216 tỷ đồng), trong đó nguồn vốn Nhà nước hỗ trợ khoảng 55.000 tỷ đồng bao gồm 14.155 tỷ đồng thực hiện giải phóng mặt bằng; 27.694 tỷ đồng hỗ trợ xây dựng các dự án đầu tư theo hình thức PPP; 13.151 tỷ đồng cho các đoạn đầu tư công. Nguồn vốn nhà đầu tư khoảng 63.716 tỷ đồng, bao gồm vốn chủ sở hữu khoảng 12.743 tỷ đồng, vốn vay khoảng 50.973 tỷ đồng.
Đối với 15.000 tỷ đồng trong tổng số 70.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ theo Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc hội, Chính phủ sẽ rà soát, xây dựng các tiêu chí đảm bảo các dự án được lựa chọn là thực sự cần thiết, cấp bách, trình Quốc hội xem xét quyết định.
Nhằm triển khai đại dự án này, Chính phủ cũng thống kê được tổng số hộ bị ảnh hưởng khoảng 8.200 hộ, số hộ dự kiến tái định cư khoảng 2.020 hộ; diện tích chiếm dụng khoảng 3.736 ha. Tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khoảng 14.155 tỷ đồng.
Để đảm bảo công khai, minh bạch, theo Kết luận số 19-KL/TW ngày 5/10/2017 của Bộ Chính trị, tất cả các nhà đầu tư phải lựa chọn thông qua đấu thầu cạnh tranh.
Trên cơ sở quy định của Luật giá, để đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường, mức giá dịch vụ sử dụng đường bộ khoảng 2.500 đồng/xe con tiêu chuẩn/km (tương ứng với thời gian kinh doanh khoảng 24 năm và phần vốn góp Nhà nước giai đoạn 2017-2020 khoảng 55.000 tỷ đồng).
Tuy nhiên, mức giá này tại thời điểm bắt đầu khai thác là khá cao, vượt quá sức chi trả của người dân, không thu hút các phương tiện nên không hiệu quả. Trường hợp áp dụng mức giá cố định khoảng 1.500 đồng/xe con tiêu chuẩn/km sẽ phù hợp với sức chi trả của người dân thời điểm bắt đầu khai thác nhưng phần vốn góp của Nhà nước sẽ tăng thêm khoảng 25.380 tỷ đồng.
Để đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý, có lợi nhuận, phù hợp với cơ chế thị trường và sức chi trả của người dân, Chính phủ xác định mức giá tại thời điểm đưa vào kinh doanh khai thác (khoảng 1.500 đồng/xe con tiêu chuẩn/km) và mức giá cụ thể cho từng thời kỳ trong vòng đời dự án làm cơ sở tính toán phần vốn góp của Nhà nước và xác định giá gói thầu để tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
“Công tác chuẩn bị đầu tư đối với các đoạn tuyến giai đoạn 2017-2020 sẽ được thực hiện trong hai năm 2017-2018, thời gian dự kiến khởi công năm 2019 và cơ bản hoàn thành vào năm 2021,” Tờ trình của Chính phủ nêu rõ.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chỉ ra một số khó khăn khi triển khai dự án cao tốc Bắc-Nam phụ thuộc rất nhiều vào thị trường (mức độ rủi ro, tính hấp dẫn của dự án, lợi nhuận các lĩnh vực khác, nguồn tín dụng dài hạn, mức độ ổn định chính sách, đấu thầu lựa chọn được nhà đầu tư…)
Do đó, Chính phủ kiến nghị Quốc hội chấp thuận cơ chế, chính sách triển khai đầu tư Dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Trường hợp một số đoạn đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư không thành công, kiến nghị Quốc hội cho phép thực hiện giải phóng mặt bằng các đoạn đầu tư giai đoạn 2017-2020 (khoảng 14.155 tỷ đồng/654 km); giao Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định phương án sử dụng phần vốn còn lại để tiếp tục đầu tư một số đoạn có nhu cầu cấp bách thuộc danh mục các dự án thành phần giai đoạn 2017-2020, điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án (nếu cần thiết)./.