Chiều 24/6, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, với 397/411 đại biểu tán thành.
Trong thời gian luật, nghị quyết chưa được sửa đổi, bổ sung, Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh
Nghị quyết gồm 7 điều, quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình và trách nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Điều 2 Nghị quyết quy định 3 tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, gồm: (1) Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật; (2) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật; (3) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế.
Tại Điều 3, Nghị quyết cũng đưa ra 5 nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chặt chẽ, tránh tùy tiện trong thực thi.

Quốc hội thông qua Nghị quyết cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Khi đã xác định được các khó khăn, vướng mắc theo các tiêu chí, nguyên tắc đã nêu, Điều 4 Nghị quyết cũng quy định 2 phương án xử lý, gồm: (1) Giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 60, 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành.
Trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung, để kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn, Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất.
Trường hợp nội dung sửa đổi, bổ sung dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì việc ban hành nghị quyết của Chính phủ phải xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc trong các luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị quyết, thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền. Các khó khăn, vướng mắc do quy định của các văn bản quy phạm pháp luật không phải là luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì cơ quan ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền.
Nghị quyết không được sử dụng để hợp thức hóa bất kỳ sai phạm nào xảy ra trước khi có hiệu lực
Phát biểu trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, thời hạn hiệu lực của Nghị quyết từ ngày thông qua đến hết ngày 28/2/2027. Song song với đó, là bỏ quy định về lựa chọn luật áp dụng tại khoản 2, 3 Điều 7 Dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội trước khi thông qua.
Đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Tư pháp nhấn mạnh, Nghị quyết này không có mục tiêu, cũng như không được sử dụng để hợp thức hóa bất kỳ sai phạm nào xảy ra trước khi Nghị quyết có hiệu lực, như lo ngại của một số ý kiến đã đặt ra.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh. (Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội)
Đồng thời, để tránh việc lạm dụng trong thực tiễn cũng như ngăn chặn việc hợp thức hóa các sai phạm, ông Nguyễn Hải Ninh cho hay, bên cạnh việc quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Nghị quyết cũng quy định cụ thể về các cơ chế kiểm soát và giám sát việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Bao gồm cơ chế thẩm định của Hội đồng thẩm định độc lập; trách nhiệm báo cáo, xin ý kiến cấp có thẩm quyền trong trường hợp cụ thể; trách nhiệm báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất; trách nhiệm giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam)...
Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cũng cho biết, việc trao quyền cho Chính phủ tạm thời ban hành quy định khác với luật, nghị quyết đã ban hành là bước cụ thể hóa Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng pháp luật.
Theo đó, cơ chế này nhằm khơi thông những điểm nghẽn, tránh ách tắc trong chỉ đạo, điều hành, nhất là trong bối cảnh sắp xếp lại tổ chức bộ máy sau sáp nhập tỉnh thành. Sau quá trình rà soát, Chính phủ phát hiện hơn 7.000 văn bản cần điều chỉnh khi sáp nhập, đổi tên các bộ.
Riêng việc chuyển đổi mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, các cơ quan chức năng đã xác định có hơn 19.000 văn bản bị tác động, trong đó có hơn 200 luật, nghị quyết và pháp lệnh của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần sửa đổi. Trong khi đó, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp liên tục để xử lý hết các vấn đề phát sinh.
Vì vậy, Quốc hội thống nhất trao quyền cho Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội, nhằm kịp thời xử lý vướng mắc, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, nhất là những vấn đề nảy sinh sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy.