Mở khóa nguồn lực, khuyến khích hình thành doanh nghiệp tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu
Phát biểu tại hội trường, ĐBQH Trần Hoàng Ngân (Đoàn ĐBQH TP.HCM) đánh giá cao báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội về kết quả phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Theo đó, Việt Nam đã hoàn thành 22/26 chỉ tiêu kinh tế - xã hội, tăng trưởng bình quân đạt 6,3%/năm, quy mô nền kinh tế tăng từ 346 tỷ USD lên hơn 510 tỷ USD, thuộc nhóm 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người đạt 5.000 USD và GNI đạt 4.750 USD, đánh dấu bước tiến quan trọng khi Việt Nam đã tiệm cận ngưỡng quốc gia có thu nhập trung bình cao.
Đánh giá năm 2026 là năm bản lề, mở đầu cho kế hoạch 5 năm 2026 - 2030, đại biểu bày tỏ sự đồng tình với mục tiêu tăng trưởng GRDP trên 10% mà Chính phủ đề xuất. Và cho rằng đây là chỉ tiêu cao, nhưng có cơ sở, phù hợp với khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, phồn thịnh, văn minh và hạnh phúc.

ĐBQH Trần Hoàng Ngân (Đoàn ĐBQH TP.HCM).
Từ thực tiễn 40 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã tích lũy được tiềm lực vững chắc, song cần có giải pháp từ sớm, từ xa để nâng cao nội lực, tạo tăng trưởng nhanh và ổn định hơn. Vì vậy, ĐBQH Trần Hoàng Ngân đề xuất một số nhóm giải pháp lớn:
Thứ nhất, phát triển kinh tế dựa trên tiềm năng và vị thế địa chính trị - địa kinh tế của đất nước, tập trung ưu tiên các lĩnh vực kinh tế biển, logistics, nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ y tế và giáo dục chất lượng cao.
Thứ hai, bên cạnh đẩy mạnh xúc tiến thương mại, khai thác thị trường truyền thống và tận dụng hiệu quả 17 hiệp định thương mại tự do, đại biểu nhấn mạnh cần tăng hàm lượng xanh, số, khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu của Việt Nam. Đây là xu hướng tất yếu của nền kinh tế toàn cầu, cũng là yêu cầu để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi cung ứng quốc tế.
Thứ ba, việc triển khai Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 198 của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù phát triển kinh tế tư nhân thời gian qua vẫn còn chậm, đặc biệt là trong khâu ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn.
Đây là nguyên nhân khiến doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh chưa có đủ điều kiện thuận lợi để tiếp cận các nguồn lực đất đai, mặt bằng sản xuất - kinh doanh, thuê nhà đất, khai thác tài sản công, cũng như các chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng, thuế, phí.
Đại biểu nhấn mạnh, cần có cơ chế rõ ràng và đồng bộ hơn để doanh nghiệp tư nhân được ưu tiên trong lựa chọn nhà thầu, hỗ trợ ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển thương mại điện tử. Đồng thời, khuyến khích hình thành các doanh nghiệp lớn, tập đoàn tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, có năng lực cạnh tranh quốc tế và xuất hiện nhiều "kỳ lân" khởi nghiệp sáng tạo.
Đặc biệt, đại biểu đề nghị sớm thể chế hóa Điều 5 của Nghị quyết 198 của Quốc hội, trong đó quy định rõ nguyên tắc xử lý vi phạm và giải quyết các vụ việc trong hoạt động kinh doanh cần ưu tiên các biện pháp về dân sự, kinh tế và hành chính, nhằm bảo đảm môi trường đầu tư - kinh doanh minh bạch, ổn định và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo trong khu vực tư nhân.
Thứ tư, quan tâm phát triển bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường, văn hóa, y tế, giáo dục và chất lượng sống của người dân.
"Cần chú trọng chất lượng sống và hạnh phúc của người dân; phát triển không chỉ vì tăng trưởng mà vì cuộc sống an toàn, văn minh, hạnh phúc của nhân dân. Đến năm 2030, phấn đấu 75% người dân cảm thấy hài lòng và hạnh phúc với cuộc sống, coi đó là thước đo quan trọng của sự phát triển", ĐBQH Trần Hoàng Ngân nêu quan điểm.
Thứ năm, cần kiên trì thực hiện ba đột phá chiến lược trong nhiều năm tới, trong đó tập trung vào đột phá thể chế, đặc biệt là thể chế đối với các đô thị, là những đầu tàu, động lực phát triển của nền kinh tế.
"Với niềm tin và khát vọng phát triển hùng cường, chúng ta tin tưởng rằng với sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành, sự đồng thuận của Quốc hội, sự năng động, sáng tạo của Chính phủ và sự đồng lòng của toàn dân, đất nước ta sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới, nhanh hơn, bền vững hơn, hạnh phúc hơn", ĐBQH Trần Hoàng Ngân nhấn mạnh.
Quyết liệt chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, định hình Việt Nam là quốc gia số, quốc gia xanh
Cũng tại phiên thảo luận về kinh tế - xã hội sáng 29/10, ĐBQH Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội, đề cập đến hai vấn đề lớn của nền kinh tế hiện nay, đó là chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Đại biểu cho rằng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Trên cơ sở đó, gần 5 năm qua, Việt Nam đã và đang thực hiện hai cuộc chuyển đổi lớn là chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, đạt nhiều kết quả ấn tượng: Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2025 xếp hạng 44/139 quốc gia, vùng lãnh thổ; hạ tầng số phát triển mạnh, Chính phủ số, kinh tế số có bước tiến vượt bậc...

ĐBQH Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội
Tuy vậy, nước ta vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình chuyển đổi, không chỉ về kỹ thuật mà còn liên quan đến thể chế, nguồn lực và nhận thức. Tỷ lệ nội địa hóa trong sản xuất công nghệ mới chỉ đạt khoảng 36,6%, phụ thuộc nặng vào khu vực FDI (chiếm 75% xuất khẩu); năng suất lao động giai đoạn 2021 - 2025 tăng 5,24%/năm, thấp hơn mục tiêu; thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, hạ tầng số còn hạn chế, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Đối với chuyển đổi xanh, áp lực năng lượng và tài nguyên ngày càng lớn; tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, thời tiết cực đoan ngày càng nghiêm trọng. Nền kinh tế vẫn phụ thuộc vào khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ, trong khi ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, chưa thu hút mạnh mẽ nguồn vốn tư nhân cho các dự án xanh.
Từ đó, đại biểu Tạ Đình Thi nhấn mạnh, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là một cuộc chuyển đổi căn bản, toàn diện, đòi hỏi tầm nhìn dài hạn, hành động quyết liệt và sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Trong đó, cần triển khai hiệu quả “bộ tứ nghị quyết trụ cột” và các chính sách Quốc hội đang xem xét, qua đó định hình rõ hơn hình ảnh của Việt Nam trong kỷ nguyên mới, là một quốc gia số và quốc gia xanh.
ĐBQH Nguyễn Đại Thắng (Đoàn ĐBQH Hưng Yên) cũng nhìn nhận, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chưa thực sự trở thành động lực tăng trưởng chính. Vì vậy, ông Thắng kiến nghị Chính phủ tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) lên ít nhất 1,5% GDP, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp trích lập quỹ khoa học - công nghệ, miễn thuế cho các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới sáng tạo.

ĐBQH Nguyễn Đại Thắng (Đoàn ĐBQH Hưng Yên).
Đại biểu cũng đề xuất thành lập Quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo quốc gia, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ, công nghiệp hỗ trợ và chuyển đổi số tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, thúc đẩy sáng tạo trong sản xuất và quản trị.
Về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, ông Thắng cho biết, hiện tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ mới đạt khoảng 29%. Do đó, cần thúc đẩy hợp tác giữa doanh nghiệp, nhà trường và viện nghiên cứu, mở rộng các mô hình đào tạo nghề gắn với nhu cầu thực tế. Chính phủ cần ưu tiên phát triển các trung tâm đào tạo về năng lượng tái tạo, kỹ thuật số, tự động hóa, là những lĩnh vực then chốt cho phát triển bền vững trong thời gian tới.
Đại biểu cũng nhấn mạnh, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050, song hiện tỷ trọng năng lượng tái tạo mới đạt khoảng 15%, trong khi tiềm năng điện gió và điện mặt trời rất lớn.
"Chính phủ cần có cơ chế rõ ràng về giá mua điện tái tạo, tín dụng xanh và thị trường carbon, qua đó khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh vào điện gió, điện mặt trời, xử lý chất thải và tuần hoàn tài nguyên", ông Thắng kiến nghị.
Về thu hút đầu tư nước ngoài, ông Nguyễn Đại Thắng cho rằng, cần chuyển từ thu hút số lượng sang chất lượng, bởi hơn 70% kim ngạch xuất khẩu hiện thuộc khu vực FDI nhưng giá trị gia tăng nội địa chưa đạt kỳ vọng. Việt Nam cần có chính sách chọn lọc, ưu tiên các dự án có cam kết chuyển giao công nghệ, sử dụng nhân lực Việt Nam và liên kết với doanh nghiệp trong nước, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp điện tử và sản xuất chip bán dẫn, để tận dụng cơ hội tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bên cạnh đó, hoàn thiện thể chế pháp luật vẫn là yêu cầu cấp thiết. Cần tiếp tục rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính rườm rà, tăng tính dự báo và minh bạch chính sách, đồng thời hoàn thiện thể chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, kết hợp với kỷ luật, kỷ cương hành chính nghiêm minh.