Phát triển kinh tế xanh cho một Việt Nam xanh
Phát triển theo mô hình kinh tế nâu, kinh tế tuyến tính truyền thống là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc khủng hoảng lớn về biến đổi khí hậu (BĐKH), ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, thiếu hụt các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, suy thoái tài nguyên đất cũng là một trong những thách thức lớn đối với phát triển bền vững (PTBV).
Để giải quyết các thách thức đặt ra, Liên Hợp Quốc đã đề ra Chương trình nghị sự vì sự phát triển bền vững, các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) vào năm 2030. Thỏa thuận Paris về BĐKH được thông qua, hướng đến phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Montreal 2022 đề ra mục tiêu đến 2030 phải bảo tồn 30% diện tích đất liền và biển; Thập kỷ về phục hồi hệ sinh thái (2021 - 2030) đang được triển khai. Nhiều thỏa thuận toàn cầu, hiệp định thương mại tự do thế hệ mới về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các-bon thấp đang được đàm phán, nâng cấp, dần trở thành các "luật chơi" mới trong quan hệ quốc tế về tài chính, đầu tư và thương mại. Các sáng kiến về kinh tế xanh, kinh tế biển xanh, kinh tế các-bon thấp, kinh tế tuần hoàn… là những nỗ lực của cộng đồng quốc tế để ứng phó với thách thức về cạn kiệt nguồn tài nguyên, suy thoái và ô nhiễm môi trường, tác động của BĐKH ngày càng gia tăng đe dọa đến sự phát triển bền vững. Ở Việt Nam, phát triển theo hướng kinh tế xanh đã sớm được đưa vào trong các văn bản định hướng chính sách của Đảng, Chính phủ và đã từng bước được hiện thực hóa bằng hành động cụ thể của các ngành, địa phương.
Trong bối cảnh phát triển nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò quan trọng kiến tạo môi trường thể chế, pháp luật, hỗ trợ và bảo vệ chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, đối ngoại. Trong đó, lực lượng doanh nhân đóng vai trò quan trọng, là hạt nhân để thúc đẩy tiến trình đổi mới, sáng tạo, áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ để thực hiện các định hướng, mục tiêu và yêu cầu đặt ra cho tiến trình chuyển đổi từ kinh tế nâu, tuyến tính sang kinh tế xanh và hiện thực hóa tầm nhìn một Việt Nam xanh.
Hướng đến nền kinh tế xanh là hướng tiếp cận được phát triển trong nửa sau thập niên đầu tiên của thế kỷ 21. Nhiều tổ chức quốc tế và chính phủ các nước đang hướng tới kinh tế xanh như một động lực mới cho PTBV, góp phần loại trừ dần cách tiếp cận kinh tế nâu trước đây. "Kinh tế xanh là một nền kinh tế nhằm cải thiện đời sống con người và công bằng xã hội, đồng thời chú trọng giảm thiểu những rủi ro cho môi trường và khan hiếm tài nguyên".
Kinh tế xanh lấy việc giảm nhẹ và ứng phó với BĐKH, phát triển không chất thải, phục hồi và đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển công nghệ sạch, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo…, qua đó góp phần đạt được các mục tiêu chính trong PTBV. Bên cạnh đó, mỗi quốc gia, vùng, miền và địa phương, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cần dựa trên những đặc trưng kinh tế và điều kiện phát triển riêng của mình để đề ra chương trình hành động phù hợp.
Trong nền kinh tế xanh, bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu được coi là vấn đề then chốt. (Ảnh: QuangNguyenVinh).
Hiện nay, kinh tế xanh được hiểu là sự kết hợp giữa ba yếu tố: Kinh tế (xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phát triển năng lượng sạch, đáp ứng nhu cầu việc làm của người dân và thúc đẩy tăng trưởng...), Môi trường (đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững, bảo tồn tài nguyên biển, bảo vệ, tái tạo và khuyến khích sử dụng bền vững các hệ sinh thái trên cạn...) và Xã hội (nâng cao chất lượng giáo dục, thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng giới và giảm thiểu bất bình đẳng xã hội...).
Trong nền kinh tế xanh, bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu được coi là vấn đề then chốt. Nhà nước và khu vực tư nhân ưu tiên đầu tư vào các hoạt động kinh tế, cơ sở hạ tầng, công trình có tác dụng đảm bảo mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát thải các-bon; nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, năng lượng; ngăn ngừa suy giảm, mất mát đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái.
Thời gian qua, các quan điểm định hướng, quy định pháp luật để phát triển kinh tế xanh đã từng bước được hoàn thiện. Các định hướng về phát triển các mô hình kinh tế xanh đã được tích hợp trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, trong đó chỉ rõ "Chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, cácbon thấp; khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất" là một trong những nhiệm vụ chính để thực hiện "Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai". Nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương về năng lượng bền vững, nông nghiệp, nông thôn và nông dân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển bền vững các vùng kinh tế - xã hội… tiếp tục khẳng định vai trò và cụ thể hóa định hướng về phát triển kinh tế xanh gắn với đặc trưng riêng của từng ngành, lĩnh vực, vùng, miền và địa phương cụ thể. Hệ thống các Chiến lược, Đề án, Chương trình, Dự án do Thủ tướng Chính phủ ban hành cũng đã thể hiện các quan điểm, hành động cụ thể nhằm chuyển dịch nền kinh tế theo hướng kinh tế xanh. Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, đất đai, tài nguyên nước, địa chất và khoáng sản, đa dạng sinh học… đã và đang được hoàn thiện nhằm khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế xanh.
Tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đã góp phần giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội; nguồn lực tài nguyên bước đầu được tăng cường quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả và bền vững hơn. Hoạt động sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế đã có những tín hiệu tích cực, bền vững hơn; việc áp dụng các phương thức sản xuất bền vững, sản xuất sạch hơn đã được triển khai; công tác bảo vệ môi trường được chú trọng hơn; nhiều sáng kiến, mô hình kinh doanh bền vững, mô hình phân loại, thu gom, tái sử dụng, tái chế chất thải đã được triển khai, thí điểm ở một số ngành, lĩnh vực và địa phương mang lại kết quả tích cực; tiêu dùng xanh, ít chất thải đã có những tín hiệu tích cực; sự tham gia tích cực của các tổ chức, cộng đồng dân cư và cá nhân vào phát triển các sáng kiến kinh tế xanh ngày càng mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức về khan hiếm nguồn lực tài nguyên thiên nhiên cho phát triển kinh tế - xã hội; tình trạng phát sinh chất thải, ô nhiễm, suy thoái môi trường và tác động của biến đổi khí hậu tiếp tục gia tăng; đa dạng sinh học suy giảm. Các mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững chưa phổ biến; xu hướng phát sinh chất thải ngày càng tăng và chưa được xem là tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội; tài nguyên, môi trường và BĐKH chưa thực sự được đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển.
Kinh tế xanh là vấn đề mới, đòi hỏi tính hệ thống, liên ngành, liên vùng cao. Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo các nền tảng để thúc đẩy người sản xuất, tiêu dùng chuyển đổi sang kinh tế xanh, với những quan điểm, mục tiêu sau:
Về quan điểm phát triển
- Kinh tế xanh là cách tiếp cận lấy nền tảng là vốn tự nhiên để các cấp, các ngành hoàn thiện thể chế, chính sách, công cụ và tập trung nguồn lực chuyển dịch nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu PTBV. Cách tiếp cận kinh tế xanh cần được tích hợp trong cả các chính sách phát triển có liên quan từ Trung ương đến cơ sở.
- Phát triển kinh tế xanh phải đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và toàn diện; Nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường thể chế, chính sách để khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế, cộng đồng dân cư, các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Phát triển kinh tế xanh là lộ trình dài hạn, gắn với thể chế khuyến khích đổi mới sáng tạo và đột phá, dựa trên các thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số; phát triển hạ tầng liên kết, đồng bộ giữa các vùng, miền; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo việc làm mới nhằm phát huy tối đa giá trị nguyên liệu, vật liệu và chất thải trong toàn bộ các giai đoạn: Thiết kế, sản xuất, phân phối, tiêu dùng và quản lý chất thải.
- Tận dụng tối đa lợi thế, tiềm năng, đặc điểm của các ngành, lĩnh vực, từng vùng, miền và địa phương để phát triển các mô hình kinh tế xanh phù hợp; phát triển các thực hành tốt, xây dựng văn hóa trong sản xuất và tiêu dùng bền vững; phát huy tính độc lập, tự chủ trong huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển kinh tế xanh.
- Đảm bảo hài hòa lợi ích của các chủ thể liên quan, lấy con người làm trung tâm, chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của người dân; phù hợp với quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và xu hướng quốc tế về phát triển kinh tế xanh.
- Điều chỉnh hành vi theo hướng xanh; tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động thực hiện các mục tiêu của kinh tế xanh; tham gia vào bảo vệ tài nguyên, môi trường, kiểm tra, giám sát. Phát huy vai trò của lãnh đạo cấp cơ sở trong quản lý, điều hành. Truyền thông, giáo dục kết hợp với biện pháp hành chính, kinh tế và biện pháp khác để tăng cường việc tuân thủ pháp luật, xây dựng văn hóa BVMT, ứng phó với BĐKH.
- Xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh của biến đổi khí hậu, đảm bảo bình đẳng về điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi xanh.
- Ưu tiên phát triển kinh tế xanh để góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, tạo ra các chuỗi giá trị gia tăng mới, hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường, góp phần thực hiện các cam kết về bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và phát triển bền vững.
Về mục tiêu tổng quát
Hình thành hệ thống cơ cấu sản xuất, tiêu dùng bền vững, sử dụng hiệu quả giá trị tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa nguyên liệu, vật liệu đã qua sử dụng, hạn chế chất thải phát sinh và giảm tác động xấu đến môi trường; phát triển mạnh các mô hình kinh tế xanh trong sản xuất, kinh doanh; tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động; phát triển các thực hành tốt, tạo dựng văn hóa và lối sống xanh, thúc đẩy tạo việc làm xanh và phát triển chuỗi giá trị mới trong lĩnh vực kinh tế xanh.
Về các giải pháp hỗ trợ thực hiện phát triển kinh tế xanh
Để thực hiện tốt và hiệu quả hơn các định hướng ưu tiên phát triển bền vững nền kinh tế, nhằm thúc đẩy phát triển mô hình kinh tế xanh, một số nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới sẽ được tập trung để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, hướng đến một Việt Nam xanh:
- Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về áp dụng kinh tế xanh. Trong đó tập trung vào hoàn thiện thể chế quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Rà soát lại những rào cản, hạn chế trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu để điều chỉnh, bổ sung hoặc loại bỏ để tiến tới phân bổ và huy động nguồn lực từ vốn tự nhiên (đất, nước, khoáng sản và các nguồn tài nguyên sinh thái) nhằm phục vụ phát triển bền vững đất nước, tạo động lực đột phá để huy động sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu các tác động đến môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Thực hiện việc rà soát hệ thống chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội về kinh tế xanh. Xây dựng và từng bước để hoàn thiện hệ thống chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế xanh, trong đó chú trọng đến nền sản xuất các-bon thấp, xanh hóa nền sản xuất ở tất cả các lĩnh vực, thay đổi thói quen tiêu dùng và đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường. Nghiên cứu, xây dựng hệ thống các tiêu chí của nền kinh tế xanh, các tiêu chuẩn, quy chuẩn của nền kinh tế xanh phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế. Ban hành những chế tài cần thiết trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng để thực hiện tăng trưởng xanh nhằm bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
- Đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ, tập trung nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của "nền kinh tế xanh" như sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng; định hướng lại đầu tư, hướng tới mức đầu tư khoảng 2% tổng chi ngân sách hàng năm cho khôi phục hệ sinh thái và bảo vệ môi trường. Ưu tiên bố trí nguồn lực để đầu tư phát triển vượt bậc doanh nghiệp khoa học công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý khoa học và tăng cường khai thác, ứng dụng công nghệ từ các quốc gia phát triển…
- Hỗ trợ thúc đẩy áp dụng kinh tế xanh trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng; hỗ trợ về tài chính, khoa học và công nghệ, kỹ năng cho các doanh nghiệp, doanh nhân để áp dụng kinh tế xanh trong sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích đổi mới sáng tạo trong áp dụng các mô hình kinh tế xanh gắn với các hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
- Tổ chức thí điểm, nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ áp dụng các biện pháp của kinh tế xanh. Tạo dựng và phát triển thị trường cho các hàng hóa, dịch vụ liên quan đến kinh tế xanh như hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ, thiết bị, sản phẩm của ngành công nghiệp môi trường để thúc đẩy thực hiện kinh tế xanh.
- Tuyên truyền, giáo dục định hướng, nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp xã hội, nhằm thay đổi tư duy, nhận thức về chuyển đổi sang nền kinh tế xanh ở Việt Nam, tập trung vào các hoạt động truyền thông, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức, pháp luật, nhân rộng các thói quen và thực hành tốt về phát triển kinh tế xanh; lồng ghép các nội dung giáo dục về kinh tế xanh vào các chương trình giáo dục các cấp học, bậc học, bồi dưỡng cán bộ; xây dựng, vận hành nền tảng kết nối thông tin, chia sẻ dữ liệu về áp dụng kinh tế xanh.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Tăng cường tổ chức đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về nền kinh tế xanh, tăng trưởng xanh cho đội ngũ cán bộ, nhất là đối với đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng "nền kinh tế xanh" ở Việt Nam, huy động các nguồn lực hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển "kinh tế xanh", các cơ chế tài chính khác cho phát triển rừng... Tạo căn cứ pháp lý và điều kiện thuận lợi để Việt Nam cam kết và tham gia tích cực vào các hoạt động của các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng nền sản xuất các-bon thấp, kiểm soát khí thải, bảo vệ tầng ô-zôn, đa dạng sinh học trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
Để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh đòi hỏi phải đổi mới từ tư duy đến hành động ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; và cần có sự đổi mới trên tất cả các khía cạnh, cụ thể:
Một là, đổi mới về xã hội, bao gồm đổi mới về nhận thức và hiểu biết; đổi mới về giáo dục và các kỹ năng; đổi mới về việc làm.
Hai là, đổi mới về môi trường, bao gồm đổi mới về cách thức nâng cao hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; đổi mới về cách tiếp cận vòng đời.
Ba là, đổi mới về kinh tế, bao gồm đổi mới về thị trường mở và cạnh tranh; các số liệu, hạch toán và báo cáo; đổi mới về nguồn lực tài chính, đầu tư và các công cụ chính sách.
Thứ tư là, đổi mới về cách thức tương tác, tạo dựng các yếu tố xuyên suốt gồm đổi mới về chính sách môi trường, xã hội, kinh tế và ra quyết định, đổi mới về quản trị và hợp tác.
Ở bất kỳ nền kinh tế nào, trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, doanh nhân đều giữ vai trò vô cùng quan trọng, đóng góp rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong tiến trình phát triển kinh tế xanh, cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp sẽ là lực lượng chủ chốt, nhân tố quyết định, góp phần quan trọng nhất trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xanh.
Tập toàn TH là một trong những doanh nghiệp tư nhân đi đầu trong việc phát triển kinh tế xanh, tuân thủ nguyên tắc sử dụng vật liệu thân thiện môi trường, năng lượng xanh, năng lượng tái tạo. (Ảnh:TH).
Trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng đã có các sáng kiến, hành động để chuyển dịch dòng đầu tư, tài chính, mô hình sản xuất, kinh doanh và chuỗi giá trị theo hướng kinh tế xanh. Tuy nhiên, đối chiếu những điều kiện này với thực tiễn ở Việt Nam có thể thấy "chặng đường để đạt được các lợi ích của kinh tế xanh là rất dài và chúng ta vẫn còn cách nền kinh tế xanh rất xa", đòi hỏi phải có lộ trình cụ thể và phát huy được vai trò hạt nhân, nòng cốt của doanh nghiệp, doanh nhân trong thực hiện tiến trình này. Cần có chính sách đột phá để hình thành, phát triển doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu, có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng xanh, chuỗi giá trị toàn cầu. Có chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mở rộng quy mô, nâng cao sức cạnh tranh, năng lực sản xuất, đặc biệt phát triển các mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, kinh tế xanh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu./.