Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) tiếp tục giữ nguyên đề xuất các tổ chức, cơ quan trong đó có các ngân hàng thương mại phải cung cấp thông tin tài khoản khách hàng cho cơ quan quản lý thuế.
Cụ thể, khoản 2 Điều 98 quy định ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin tài khoản của khách hàng là người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế, gồm nội dung giao dịch tài khoản, số dư tài khoản người nộp thuế trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan quản lý thuế.
Đây là một nội dung gây chú ý và còn nhiều ý kiến khác nhau, BizLIVE đã ghi nhận những ý kiến của đại diện Tổng cục Thuế, ngân hàng, chuyên gia về vấn đề này.
Giảm thiểu thủ tục cho người nộp thuế
Việc quy định cung cấp thông tin về số tài khoản của người nộp thuế là nhằm giảm thiểu thủ tục cho người nộp thuế, chia sẻ thông tin giữa cơ quan quản lý thuế và các bên liên quan theo cơ chế tự động. Hiện nay đã có 51 ngân hàng ký kết với cơ quan thuế về việc chia sẻ thông tin, trong đó có 49 ngân hàng đã triển khai.
Với thực tế quản lý như nêu trên, hiện cơ quan thuế đang quản lý cơ sở dữ liệu về tài khoản của hàng trăm ngàn doanh nghiệp nhưng chưa phát sinh trường hợp có ảnh hưởng đến việc bảo mật thông tin của ngân hàng.
Tham khảo kinh nghiệm quốc tế như: mẫu Luật quản lý thuế của IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế); Luật quản lý thuế của Hungary và báo cáo của OECD về cải thiện quyền truy cập vào thông tin ngân hàng cho mục đích thuế, đa số các nước đều quy định các ngân hàng và tổ chức tài chính tín dụng có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan thuế biết về việc mở các tài khoản của người nộp thuế cùng mã số thuế do cơ quan thuế cấp.
Thậm chí, một số nước còn yêu cầu việc báo cáo tự động đối với việc đóng mở tài khoản, số dư tài khoản tại thời điểm cuối năm cũng như tiền lãi trên tài khoản của người nộp thuế cho cơ quan thuế. Như vậy, nội dung quy định như dự thảo Luật về nhiệm vụ, trách nhiệm của ngân hàng thương mại đã phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo việc trao đổi thông tin với cơ quan thuế các nước.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ như hiện nay, công tác chống chuyển giá, chống xói mòn nguồn thu và tăng cường quản lý, giao dịch xuyên biên giới, thương mại điện tử rất cần sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành trong công tác quản lý nhà nước theo chức năng nhiệm vụ của từng bộ, ngành, địa phương.
Cung cấp thông tin tài khoản khách hàng, cơ quan thuế cũng phải bảo mật
Pháp luật đã quy định thông tin, số liệu của người dân trên tài khoản mở tại ngân hàng phải được bảo mật, đó là quyền của công dân. Ngân hàng không được làm lộ bí mật về tài khoản, giao dịch của khách hàng cho bất cứ một bên thứ 3 nào nếu như không có yêu cầu của cơ quan pháp luật như: toà án, công an, thanh tra… Nếu có yêu cầu từ những cơ quan đó thì ai là người được quyền ra yêu cầu.
Bởi vì, việc xác định chi tiết nội dung giao dịch của khách hàng vô cùng khó khăn. Chẳng hạn, một khách hàng có nhiều giao dịch, như: bạn bè chuyển tiền cho mượn vài trăm triệu, cho người thân, họ hàng vay tiền… nếu không ghi rõ ràng trong nội dung chuyển tiền sẽ rất khó xác định đó là giao dịch vay mượn hay thu nhập.
Tới đây, theo chủ trương của Nhà nước, tất cả các giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ đều phải thanh toán qua ngân hàng, dẫn tới số lượng thanh toán qua ngân hàng rất lớn, nếu ngân hàng phải thường xuyên cung cấp chi tiết giao dịch của nhiều khách hàng theo yêu cầu của các cơ quan thuế các cấp sẽ rất khổ cho ngân hàng. Có khi ngân hàng phải thành lập riêng một bộ phận chuyên cung cấp thông tin cho các cơ quan thuế.
Theo tôi, ngân hàng sẽ cung cấp thông tin về tài khoản của khách hàng trong những hợp cơ quan điều tra của công an nghi ngờ một đối tượng về phạm tội, cơ quan thuế nghi ngờ ai đó trốn thuế… và gửi văn bản cho ngân hàng, chúng tôi sẵn sàng và có trách nhiệm hợp tác để các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đó là nghĩa vụ của tất cả các bên trong việc phối hợp quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, việc cung cấp đó phải nói rõ: phục vụ mục đích gì, thời gian tra soát giao dịch, trách nhiệm bên thuế về đảm bảo thông tin khách hàng, cam kết thông tin ngân hàng cung cấp chỉ thực hiện cho mục đích đưa ra… Điều quan trọng nữa là cấp lãnh đạo nào được yêu cầu? Chỉ lãnh đạo cấp Cục trở lên của các đơn vị mới có quyền này để tránh lạm quyền, nếu cả lãnh đạo thuế cấp huyện, xã, quận cũng đòi yêu cầu cung cấp tài khoản, sao kê khách hàng sẽ gây khó khăn, phiền hà cho ngân hàng.
Không phù hợp, có thể xảy ra sự lạm quyền
Trên thế giới, cụ thể là tại các nước tiên tiến, ngân hàng phải tự động cung cấp thông tin về lãi ngân hàng trả cho họ vì tiền lãi được xem như thu nhập bình thường như các thu nhập khác, ở Việt Nam các ngân hàng chưa bắt buộc phải làm chuyện này.
Cụ thể, ở nhiều nước cuối năm ngân hàng phải khai báo với sở thuế về tài khoản ở ngân hàng, tất cả tài khoản này có số lãi bao nhiêu họ sẽ báo cho sở thuế về thu nhập tiền lãi nhưng sở thuế không có quyền đòi tất cả các thông tin khác như số dư tài khoản, số tài khoản, các thông tin khác trên tài khoản…. trừ trường hợp ngân hàng nhận được yêu cầu của toà án ra lệnh cho ngân hàng phối hợp cung cấp thông tin.
Trở lại trường hợp Việt Nam, hiện đang có đề xuất cơ quan thuế yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin liên quan đến khách hàng là không phù hợp, vi phạm quyền riêng tư và có thể xảy ra khả năng lạm quyền của cơ quan thuế. Biết về số dư tài khoản, tài khoản như thế nào, biến chuyển ra sao, có thông tin dùng số tiền đó để trả cho ai, tất cả những thông tin liên quan đến tài khoản dễ xảy ra sự lợi dụng nên tôi cho rằng chỉ đồng ý ngân hàng cung cấp thông tin tiền lãi cho cơ quan thuế, cơ quan chức năng một cách tự động, không bắt buộc phải có sự yêu cầu của toà án, cơ quan điều tra.
Ở góc độ ngân hàng, dĩ nhiên ngân hàng dưới quan điểm phải bảo vệ bí mật thông tin khách hàng họ không tha thiết, mặn mà đồng ý với đề xuất này.
Cần nghiên cứu quy định rõ các trường hợp cung cấp thông tin
Quy định này chưa phù hợp bởi theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và được sự chấp thuận của khách hàng.
Cần có sự hài hòa giữa hai quy định để không làm ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động của ngân hàng, để tránh lạm dụng trong việc yêu cầu cung cấp thông tin dẫn đến ngân hàng vi phạm pháp luật.
Tôi đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu quy định rõ các trường hợp cung cấp thông tin, thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin và đặc biệt là theo quy định chặt chẽ việc khấu trừ tiền trong tài khoản để nộp thuế để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của công dân.