Aa

"Đô thị xanh ven biển" là con đường tất yếu của Việt Nam

Thứ Năm, 20/08/2020 - 06:00

Với lợi thế bờ biển dài nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, văn hóa đặc sắc… loại hình đô thị du lịch nghỉ mát và sinh thái là phù hợp và đặc trưng trong hệ thống đô thị biển Việt Nam.

Là quốc gia ven biển, Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260km, với trên 50% dân số sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển. Việt Nam có nhiều tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biển: Giao thông vận tải biển; Khai thác và chế biến khoáng sản; Khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển… Đặc biệt, các đô thị ven biển có thể coi là những cực phát triền kinh tế biển. 

Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong phát triển kinh tế biển khi thực hiện Chiến lược Biển Quốc gia từ năm 2008. Tuy nhiên, Việt Nam chưa phát huy tối đa lợi thế, tiềm năng là cửa ngõ vươn ra quốc tế của các địa phương có biển, kinh tế biển vẫn còn nhỏ bé về quy mô, còn bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề. 

bien viet nam 2
Công cuộc xanh hóa các đô thị biển hoàn toàn mang tính khả thi.

Điều đáng chú ý là việc phát triển kinh tế biển chưa gắn với liên kết kinh tế vùng, chưa tạo thành được chuỗi kết nối giữa các địa phương có biển và các địa phương khác, do vậy chưa tạo ra mối liên kết kinh tế, phát huy được lợi thế so sánh, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Các đô thị biển phát triển thiếu định hướng không khai thác được thế mạnh là những đầu tàu của kinh tế biển. Trong quá trình khai thác, xây dựng, phát triển kinh tế biển của các địa phương có biển đã bộc lộ nhiều bất cập của việc thiếu sự liên kết các đô thị biển trong quá trình đó, dẫn đến hiệu quả kinh tế chưa cao. Gắn kết kinh tế vùng còn thiếu đồng bộ làm cho kinh tế biển không thực sự trở thành động lực và tác động lan toả đến các lĩnh vực khác.

Đô thị biển - Câu chuyện nhà cao tầng và tầm nhìn biển

Đô thị ven biển được xem là các cực mũi nhọn phát triển kinh tế biển. Trong xu hướng liên kết kinh tế và hợp tác hiện nay, việc lựa chọn các đô thị ven biển để phát triển và liên kết kinh tế là yêu cầu bắt buộc đối với các địa phương có biển, điều đó sẽ giúp các tỉnh, vùng tiết kiệm được nguồn lực về tài chính, nhân lực, khoa học công nghệ… của địa phương. Hơn nữa, cần phải tập trung nguồn lực cho các đô thị ven biển, nhằm tạo sự đột phá mạnh và sức lan tỏa rộng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. 

Các đô thị biển đã nhiều lần điều chỉnh quy hoạch chung nhưng cũng mới chỉ giải quyết được vấn đề tổ chức mặt bằng tổng thể, phân khu chức năng, các hướng phát triển… mà chưa đề xuất được không gian kiến trúc, đặc biệt là trên các mặt tiền tuyến ven biển, các quy định về tầng cao trung bình và các chỉ tiêu chủ yếu của đô thị hướng biển. Các dự báo về quy mô dân số và dự kiến phân bổ dân số cho từng khu vực chưa hợp lý, chưa đủ cơ sở làm tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề phát triển đô thị liên quan. 

Quy hoạch chi tiết chạy đua theo phong trào khai thác chia lô, chiếm lĩnh toàn bộ không gian đô thị. Tổ chức môi trường ở còn ỷ lại các khu vực tự nhiên mà quên đi việc cải thiện môi trường, không gian tại các khu đô thị. Những vành đai huyết mạch ven biển chưa có cơ hội kết nối sâu trong đất liền nên chưa phát huy hết các yếu tố gợi mở của biển. Thực tế hiện nay có rất nhiều ý kiến tranh cãi về cách phát triển của đô thị này.

Thực tế hiện nay có rất nhiều ý kiến tranh cãi về cách phát triển của đô thị biển.

Cơn sốt “bất động sản du lịch” đã tạo được cơ hội tốt cho việc phát triển quy hoạch - kiến trúc các đô thị ven biển Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời cũng nảy sinh những vấn đề gây tranh cãi về những lợi thế và bất cập của việc xây dựng nhà cao tầng ven biển. Nhà cao tầng ven biển có những lợi thế về tạo dựng cảnh quan hiện đại, về quảng bá thương hiệu và hưởng lợi từ các tài nguyên thiên nhiên như nắng gió tầm nhìn, không khí trong lành… Chúng luôn được các nhà đầu tư du lịch cũng như các nhà quy hoạch kiến trúc tận dụng. 

Một ví dụ thành công của nhà cao tầng ven biển là Marina Bay ở Singapore, nhưng Singapore lại là một trường hợp đất chật, bãi biển không đẹp hoàn toàn khác so với các đô thị biển Việt Nam. Bên cạnh lợi thế luôn là những bất cập. Trước hết, nhà cao tầng thích hợp với các đô thị nén nhiều hơn so với đô thị biển, bởi đô thị biển thường là không gian nghỉ dưỡng du lịch với nhiều yếu tố thiên nhiên thoáng đãng, mật độ xây dựng thấp hơn. Vì vậy khi đưa một khối tích công trình lớn như các nhà cao tầng vào khung cảnh đô thị biển sẽ gây tác động mạnh tới cảnh quan đô thị, ảnh hưởng đến phân bố mật độ đô thị và thông gió đô thị. Việc xây dựng một ngôi nhà cao tầng trong một khu vực đô thị sẽ là một biến động lớn về mật độ xây dựng. 

Do đó số lượng và sự phân bố nhà cao tầng trong quy hoạch phát triển đô thị cần hết sức cẩn trọng nếu không nó sẽ dẫn đến sự quá tải hạ tầng đô thị và phá vỡ trạng thái cân bằng gây ra nhiều bất ổn về môi trường, kinh tế và xã hội. Với chiều cao và diện mặt đứng lớn, nhà cao tầng sẽ che chắn ánh mặt trời tạo ra nhiều vùng bóng đổ, làm thay đổi chuyển động không khí tác động đến các vùng tiểu khí hậu đô thị. Những “dãy tường cao ốc” ven biển sẽ che hết gió mát, nắng và gây ra ô nhiễm “tầm nhìn biển” của phần đô thị biển phía sau.

marina-bay-sands-fourth-tower-singapore
Một ví dụ thành công của nhà cao tầng ven biển là toà Marina Bay ở Singapore.

“Đô thị xanh” ven biển - Cơ hội và thách thức

Trên thế giới có nhiều cách đánh giá và các tiêu chí khác nhau để xác định một đô thị xanh bền vững. Tuy nhiên, trong “Hiệp định Thành phố Môi trường của Liên Hiệp Quốc năm 2005” đưa ra 7 nội dung được xem là tiền đề của các tiêu chí của đô thị xanh sau này, đó là: (1) Năng lượng: Tăng cường sử dụng Năng lượng tái tạo; Ứng phó với Biến đổi khí hậu; (2) Giám chất thải: Thành phố không chất thải; Nêu cao trách nhiệm của nhà sàn xuất, trách nhiệm của người tiêu dùng; (3) Thiết kế thành phố: Công trình Xanh; Quy hoạch đô thị xanh; Giải quyết nhà ổ chuột; (4) Thiên nhiên của thành phố: Công viên, vườn hoa; Phục hồi nơi sinh cư của các loài động vật đặc biệt là động vật hoang dã; (5) Giao thông vận tải: Giao thông công cộng; Phương tiện giao thông sạch; Giảm tắc nghẽn; (6) Sức khỏe môi trường: Giảm khói bụi, chất độc; Hệ thống thực phẩm an toàn sức khỏe; Không khí trong sạch; (7) Nước: Cấp nước hiệu quả; Bảo tồn nguồn nước; Giảm thiểu nước thái. 

Nếu xét 7 tiêu chí của đô thị xanh như trên thì những đô thị ven biển Việt Nam đang có nhiều lợi thế và nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, nhiều thách thức đang đặt ra đòi hỏi đô thị ven biển Việt Nam phải thay đổi để hướng tới những mục tiêu bền vững hơn.

hoang-manh-nguyen
PGS.TS.KTS Hoàng Mạnh Nguyên/Viện Đô thị xanh Việt Nam

Tăng trưởng xanh đang là xu thế phát triển của nhiều quốc gia trong giai đoạn hiện nay nhằm cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Tại Việt Nam, xu thế này được cụ thể hóa thông qua “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 ”. Chiến lược tăng trưởng xanh là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các chính sách liên quan đến “kinh tế xanh” ở Việt Nam trong giai đoạn tới. 

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh đã trở thành đường hướng phát triển ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp không khói (smokeless industry) là tên gọi khác của ngành du lịch đã và đang có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đặt mục tiêu: Đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thu hút 17 - 20 triệu lượt khách quốc tế, đóng góp hơn 10% GDP, giá trị xuất khẩu từ du lịch đạt hơn 20 tỷ USD và chính thức trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào năm 2030.

Với lợi thế bờ biển dài nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, văn hóa đặc sắc… loại hình đô thị du lịch nghỉ mát và sinh thái là phù hợp và đặc trưng trong hệ thống đô thị biển Việt Nam. Công cuộc xanh hóa các đô thị biển hoàn toàn mang tính khả thi. Cần xác lập quan niệm, tiêu chí tương thích, nhất là mô hình chuyển đổi một đô thị biển đơn thuần sang đô thị xanh ven biển một cách tổng thể trên nền tảng của những thế mạnh tự nhiên đặc trưng riêng của từng khu vực. Biến đổi khí hậu có những tác động mạnh mẽ đối với đô thị ven biển. Cần có các biện pháp phòng chống và ứng phó với biến đổi khí hậu như đưa ra các dự báo sớm về mực nước biển dâng hay thiên tai… với độ chính xác cao. 

Về nhà cao tầng, trước hết cần chú ý những đặc trưng của nhà cao tầng ven biển để có giải pháp quy hoạch - kiến trúc thích hợp. Như vậy rõ ràng khi sử dụng kiến trúc cao tầng ven biển cần chú ý tới những điều kiện và yêu cầu khác với kiến trúc cao tầng thông thường, trước hết ở khâu quy hoạch và kiến trúc, tiếp theo là những vấn đề về kỹ thuật, về môi trường và biến đổi khí hậu, về vật liệu xây dựng và kỹ thuật thi công trong điều kiện xâm thực biển… rất cần có các nghiên cứu chuyên sâu để đáp ứng nhu cầu cấp thiết này.

do-thi-xanh-ven-bien
Các công trình cao tầng phải đảm bảo xây dựng đúng theo quy hoạch, đảm bảo được đủ diện tích công cộng, đất cây xanh cho khu vực ven biển.

Cần rà soát điều chỉnh các dự án ven biển có yếu tố cao tầng về tỷ trọng, mật độ, kích thước của nhà cao tầng. Đặc biệt, cần chú ý khai thác các lợi thế tự nhiên của biển địa phương, tạo được các đô thị du lịch biển có bản sắc riêng, không nên chạy đua theo các kỷ lục và không cần lấy nhà cao tầng để làm biểu tượng địa phương. Quy mô và phong cách kiến trúc cao tầng rất cần hài hòa với tầm vóc và bản sắc của từng đô thị biển khác nhau, và chỉ nên dùng trong trường hợp cần thiết tạo điểm nhấn đô thị. 

Phát triển kinh tế biển trong đó có du lịch nghỉ dưỡng là con đường tất yếu của Việt Nam, tuy nhiên rất cần hài hòa và đồng bộ giữa phát triển thị trường bất động sản với phát triển đô thị, không nên đầu tư quá ồ ạt mà cần khai thác và giữ gìn các tiềm năng du lịch của địa phương, sử dụng một cách hợp lý và thông minh nhất tài nguyên du lịch tự nhiên đã được thế giới đánh giá cao.

Trong chuỗi phát triển của các đô thị ven biển đều cần phải thực hiện đồng thời và tổng thể trên ba phương diện:

Thứ nhất, khai thác không gian biển, thiên nhiên biển (mặt biển, dưới biển, bầu trời trên biển…); Thứ hai, khai thác vùng bờ biển, cảnh quan ven biển (các cảng biển, bãi biển, khu kinh tế ven biển…); Thứ ba, các lĩnh vực “hậu cần, kết nối” và “thị trường” cho kinh tế biển (vận tải biển, dịch vụ biển, chế biến sản phẩm khai thác biển, khoa học công nghệ, kết nối du lịch biển với tuyến du lịch đất liền, thị trường cho đầu ra của sản phẩm khai thác từ biển…).

Không gian kiến trúc cảnh quan đô thị chịu nhiều tác động lớn nhất khi xây dựng các công trình cao tầng ven biển. Các công trình cao tầng ven biển là điểm nhấn của đô thị, tạo sức hút mạnh mẽ đối với du lịch địa phương. Quá trình phát triển nhà cao tầng cần chú trọng phát triền hạ tầng đồng bộ kèm theo, chú trọng giữ gìn bản sắc đặc trưng của môi trường tự nhiên của địa phương. 

Việc xây dựng nhà cao tầng ven biển là một xu thế của nền kinh tế du lịch biển, tuy nhiên cần được áp dụng một cách thận trọng. Cách sử dụng kiến trúc cao tầng ở các đô thị biển cần hướng đến tối ưu hóa cảnh quan, không gian và nâng cao chất lượng phục vụ để thu hút khách du lịch. Cần hoàn thiện hệ thống các văn bản quy định riêng cho nhà cao tầng ở ven biển. Các công trình cao tầng phải đảm bảo xây dựng đúng theo quy hoạch, đảm bảo được đủ diện tích công cộng, đất cây xanh cho khu vực ven biển./

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Liên kết hữu ích
Lên đầu trang
Top