Sáng 30/5, dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam tổ chức Tọa đàm "Đột phá trong cải cách thể chế để kinh tế tư nhân bứt phá" đồng thời tiến hành họp Hội đồng chuyên gia tư vấn Đề án truyền thông "Kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".
Chia sẻ tại tọa đàm, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội nhìn nhận, trước hết, khái niệm doanh nghiệp dân tộc phải được hiểu là những doanh nghiệp mang tầm vóc đại diện cho quốc gia, có bản sắc riêng gắn liền với văn hóa dân tộc và tạo được niềm tự hào cho người Việt ở phạm vi toàn cầu. Tương tự như cách Huawei trở thành biểu tượng công nghệ của Trung Quốc, Việt Nam cũng cần có những doanh nghiệp mà khi nhắc đến, người Việt có thể cảm thấy tự hào, nhận diện được bản sắc dân tộc trong từng sản phẩm, dịch vụ.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. (Ảnh: Tùng Dương)
Nhìn rộng hơn, chuyên gia cho rằng bản sắc dân tộc trong doanh nghiệp không phải khái niệm trừu tượng, mà cần được hiện thực hóa trong triết lý kinh doanh, trong mô hình quản trị, sản xuất và cả trong hành xử với đối tác, khách hàng.
"Doanh nghiệp Nhật Bản nổi bật với tinh thần cải tiến không ngừng, không thỏa hiệp với chất lượng và sự tôn trọng đối tác. Với Việt Nam, bản sắc dân tộc có thể bắt nguồn từ những giá trị truyền thống, tinh thần cộng đồng, sự linh hoạt, hoặc từ văn hóa ứng xử đặc thù của người Việt. Những yếu tố này cần được xác định rõ, làm nổi bật và chuyển hóa thành lợi thế cạnh tranh", TS. Nguyễn Sĩ Dũng lấy ví dụ.
Cũng theo TS. Dũng, một yếu tố không thể thiếu làm nên định nghĩa doanh nghiệp dân tộc là vai trò dẫn dắt của đội ngũ doanh nhân, những người không chỉ có tầm nhìn chiến lược mà còn là tài sản trí tuệ của quốc gia. "Doanh nghiệp dân tộc phải gắn với doanh nhân xuất sắc, người có khả năng đưa hình ảnh và thương hiệu Việt vươn tầm quốc tế. Doanh nghiệp dân tộc không nhất thiết phải là doanh nghiệp lớn nhất, nhưng nhất định phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm với cộng đồng, đóng góp vào sự phát triển bền vững của dân tộc, cả về kinh tế lẫn giá trị đạo đức và hình ảnh quốc gia", ông nói.
Ở một góc tiếp cận khác, GS.TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội cho rằng, khái niệm doanh nghiệp dân tộc cần đáp ứng đủ 3 tiêu chí.

GS.TS. Hoàng Văn Cường. (Ảnh: Tùng Dương)
Trước hết, theo ông, doanh nghiệp dân tộc không bị giới hạn bởi hình thức sở hữu, có thể là doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà nước, miễn là được thành lập theo pháp luật Việt Nam và mang quốc tịch Việt Nam thì đều có thể được xác định là doanh nghiệp dân tộc.
GS.TS. Hoàng Văn Cường cũng cho rằng, doanh nghiệp dân tộc phải có khả năng xây dựng thương hiệu gắn với hình ảnh quốc gia, đóng góp tích cực vào việc nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thương hiệu đó không chỉ thể hiện qua sản phẩm, dịch vụ, mà còn qua tinh thần, văn hóa và trách nhiệm xã hội mà doanh nghiệp truyền tải.
Và cuối cùng, xét trên bình diện kinh tế, doanh nghiệp dân tộc cần là lực lượng tạo nên nền tảng tự chủ cho nền kinh tế quốc gia, tức là phải có năng lực cạnh tranh thực chất, khả năng phát triển bền vững và ít lệ thuộc vào yếu tố bên ngoài.
"Doanh nghiệp đáp ứng được đầy đủ 3 tiêu chí nêu trên, theo tôi, hoàn toàn xứng đáng được công nhận là doanh nghiệp dân tộc. Khi đó, việc thiết kế chính sách hỗ trợ hay truyền thông định hướng cần được triển khai tương xứng để phát huy vai trò của lực lượng này", GS. TS. Hoàng Văn Cường đúc kết./.