PV: Thưa Bộ trưởng, năm 2019, đất nước đã đạt được kết quả toàn diện trong việc hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, trong kết quả chung đó có đóng góp của ngành xây dựng. Nếu nói về kết quả nổi bật của ngành xây dựng trong năm qua, Bộ trưởng tâm đắc về điều gì?
Bộ trưởng Phạm Hồng Hà: Năm 2019, hòa chung khí thế thi đua yêu nước sôi nổi của cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ - Thủ tướng Chính phủ và cấp ủy các địa phương, toàn ngành xây dựng từ trung ương đến địa phương và cộng đồng doanh nghiệp ngành xây dựng đã chủ động, nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu được giao và đạt được những kết quả hết sức quan trọng.
Về kết quả tổng thể, đã đạt và vượt 7/8 chỉ tiêu phát triển chủ yếu của ngành, trong đó tốc độ tăng trưởng ước đạt 9,1%, đóng góp hơn 1% vào tăng trưởng kinh tế. Công tác quản lý nhà nước về xây dựng được tăng cường, các hoạt động xây dựng ổn định, nề nếp. Chất lượng công trình được đảm bảo. Quản lý trật tự xây dựng có chuyển biến tốt hơn. Chỉ số cấp phép xây dựng đứng thứ 25/190 nền kinh tế, thứ 3 trong ASEAN.
Hệ thống đô thị mở rộng lên 835 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đạt 39,2% vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đặt ra. Thị trường bất động sản cơ bản được kiểm soát, 4 năm liên tục ổn định và tăng trưởng.
Mặc dù có sự sốt giá đất cục bộ tại một số địa phương nhưng chưa có các dấu hiệu cực đoan lớn. Thị trường vật liệu xây dựng phát triển, đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng trong nước và có xuất khẩu. Các chương trình hỗ trợ phát triển nhà ở tiếp tục được triển khai tích cực, đã hoàn thành 95% Chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công…
Có thể nói, trong năm 2019, toàn ngành xây dựng tiếp tục dồn toàn lực cho những khâu, những lĩnh vực, nhiệm vụ then chốt, dài hạn, kịp thời thực hiện, đề xuất, tham mưu với Chính phủ tháo gỡ những vấn đề vướng mắc nổi cộm trong thực tiễn. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và các công cụ quản lý nhà nước tiếp tục được tập trung đẩy mạnh, hoàn thiện theo hướng tạo lập môi trường pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất, phục vụ tốt nhất thực tiễn. Môi trường đầu tư kinh doanh trong ngành xây dựng được cải thiện và thông thoáng hơn. Các hoạt động xây dựng ngày càng đi vào nề nếp, chất lượng công trình được bảo đảm, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Đây cũng chính là kết quả mà tôi tâm đắc nhất bởi ngành xây dựng đã đi đúng hướng, đã tập trung cho những vấn đề cốt lõi nhất trong quản lý đầu tư xây dựng, giải quyết được yêu cầu trước mắt, đồng thời sẽ tạo ra những đột phá mới về quản lý đầu tư xây dựng, quản lý trật tự xây dựng, quản lý thị trường xây dựng một cách công khai minh bạch, theo đúng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới.
PV: Bộ trưởng có thể cho biết cụ thể hơn về những kết quả trong công tác hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng?
Bộ trưởng Phạm Hồng Hà: Nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện thể chế và các công cụ quản lý nhà nước được Bộ Xây dựng coi là khâu then chốt, vừa dài hạn nhưng cũng là cấp bách, được tập trung chỉ đạo thực hiện với quan điểm xuyên suốt: “Đảm bảo đổi mới tư duy, phù hợp thực tiễn, không biểu hiện lợi ích nhóm, cục bộ, lợi ích ngành; đẩy mạnh phân cấp phân quyền hợp lý”.
Từ quan điểm xuyên suốt và nỗ lực tập trung chỉ đạo thực hiện, năm 2019 trong công tác này, có một số kết quả nổi bật. Thứ nhất - Bộ Xây dựng đã hoàn thành khối lượng văn bản quy phạm pháp luật rất lớn. Đến nay Bộ đã hoàn thành, trình 2 Dự án Luật; 5 Nghị định; 1 Nghị quyết; 8 Quyết định; 2 Chỉ thị và ban hành theo thẩm quyền 8 Thông tư. Ngoài ra đang gấp rút hoàn thành 4 Quyết định; 12 Thông tư.
Bên cạnh đó, Bộ cũng đã hoàn thành, trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các Đề án, Chiến lược quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Cụ thể như Đề án “ Phát triển vật liệu xây dựng phục vụ các công trình ven biển và hải đảo đến năm 2025”; Đề án “An ninh kinh tế trong bảo đảm chất lượng, tiến độ các dự án, công trình trọng điểm quốc gia”; Chiến lược phát triển đô thị quốc gia; Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050…
Đặc biệt, dự án Luật Kiến trúc được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV. Đây là một luật chuyên ngành nhưng rất nhiều ảnh hưởng đến đời sống xã hội, được người dân, chuyên gia và các nhà khoa học rất quan tâm. Lần đầu tiên các quy định về quản lý kiến trúc, hành nghề kiến trúc; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cá nhân trong hoạt động kiến trúc đã được luật hóa. Bộ đang tập trung xây dựng Nghị định và các văn bản hướng dẫn Luật.
Thứ hai, đã có sự đổi mới mạnh về tư duy, nhận thức trong quá trình hoàn thiện thể chế với quan điểm chung là: Cơ quan Nhà nước chỉ làm những gì thuộc chức năng quản lý Nhà nước, không làm những việc xã hội, doanh nghiệp, tổ chức khác có thể làm và cần phải làm. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng được báo cáo Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 vừa qua (dự kiến sẽ thông qua tại Kỳ họp thứ 9 vào tháng 5/2020), đã thể hiện rõ quan điểm này.
Các nội dung sửa đổi nhằm tăng cường, cải cách thủ tục hành chính, đơn giản điều kiện đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi, minh bạch, bình đẳng cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng thể hiện qua sự quản lý thống nhất của Trung ương, tăng cường phân cấp hợp lý và nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương; bảo đảm công khai, minh bạch, phòng chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong hoạt động đầu tư xây dựng, phân tách trách nhiệm, nội dung thẩm định để phê duyệt dự án của cơ quan chuyên môn thuộc người quyết định đầu tư và trách nhiệm kiểm soát các nội dung thuộc quản lý nhà nước của cơ quan chuyên môn về xây dựng.
Tích hợp, hoặc thực hiện song song các thủ tục nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cho doanh nghiệp, trong đó có việc tích hợp cấp phép và thiết kế, giảm thời gian thẩm định và cấp phép từ 30 ngày xuống còn 20 ngày…Với những nội dung mới đưa vào sửa đổi, bổ sung Luật sẽ khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn công tác đầu tư xây dựng hiện nay; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Thứ ba, đã đổi mới căn bản tư duy về quản lý chi phí xây dựng. Cụ thể là Bộ đã tham mưu để Chính phủ ban hành Nghị định 68 về quản lý chi phí xây dựng, đồng thời triển khai 2 Đề án quan trọng về hoàn thiện hệ thống định mức và giá xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng. Kiên quyết thực hiện các nội dung này sẽ có sự đột phá mới về quản lý đầu tư xây dựng, quản lý trật tự xây dựng, thực hiện đúng theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tính đúng tính đủ, phù hợp với từng loại nguồn vốn, tiến tới công khai minh bạch, phòng chống thất thoát tham nhũng trong đầu tư xây dựng.
Hiện Bộ đã rà soát toàn bộ khoảng hơn 14 nghìn định mức đơn giá liên quan đến xây dựng để loại bỏ những đơn giá, định mức lỗi thời, không còn phù hợp, đồng thời hoàn thiện được 13 phương pháp xác định quản lý chi phí mới, cập nhật tiến bộ của các nước tiến tiến trên thế giới, từ đó sẽ xây dựng hệ thống đơn giá định mức theo phương pháp mới, phù hợp với thực tiễn. Với Đề án hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, Bộ đã hoàn thành và ban hành 3 quy chuẩn quan trọng đó là QCVN 01:2019/BXD về quy hoạch xây dựng; quy chuẩn số 04 về nhà chung cư và quy chuẩn 06 về phòng cháy chữa cháy.
Thứ tư, công tác cải cách hành chính, rà soát cắt giảm các thủ tục, điều kiện đầu tư kinh doanh trong ngành xây dựng đã đi vào thực chất, tháo gỡ nút thắt hoạt động đầu tư xây dựng theo tinh thần Nghị quyết 100/2018/NĐ-CP và Nghị quyết 02/2019/NQ-CP của Chính phủ. Chỉ số cấp phép xây dựng tiếp tục được cải thiện và là chỉ số xếp hạng cao nhất trong 10 chỉ số môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Bộ đã báo cáo Chính phủ và đề xuất kiến nghị, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện luật pháp nhằm rút ngắn thời gian cấp giấy phép xây dựng và các thủ tục liên quan; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, đẩy mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ bưu chính công ích…
Thứ năm, công tác quản lý nhà nước về xây dựng được tăng cường hơn. Năm 2019, trước những vấn đề lớn và bức xúc của thực tế, Bộ Xây dựng cũng đã tham mưu với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các chỉ thị về quản lý trật tự xây dựng, quản lý quy hoạch, về tăng cường quản lý bất động sản. Ngành xây dựng các địa phương cũng đã tham mưu cho chính quyền, cấp ủy để ban hành các văn bản, quy định, hướng dẫn quản lý nhà nước về xây dựng trên địa bàn, tạo sự đồng bộ từ trung ương đến địa phương…
PV: Được biết, duy nhất một chỉ tiêu mà Bộ Xây dựng không đạt kế hoạch năm 2019 đó là về phát triển nhà ở xã hội. Vậy Bộ trưởng có thể chia sẻ về những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện chỉ tiêu này; những giải pháp cụ thể Bộ Xây dựng đưa ra trong năm 2020 để thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội?
Bộ trưởng Phạm Hồng Hà: Trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của các cấp, các ngành và toàn xã hội, trong những năm qua, chương trình phát triển nhà ở cho các đối tượng khó khăn, bảo đảm an sinh xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Đến nay cả nước đã và đang hoàn thành hỗ trợ nhà ở cho gần 338 nghìn hộ người có công với cách mạng theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg; Chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo khu vực nông thôn theo QĐ 33/2015/QĐ-TTg cũng đã hỗ trợ khoảng 103 nghìn/240 nghìn hộ được vay vốn làm nhà ở; Chương trình hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng tránh bão, lụt theo QĐ 48/2014/QĐ-TTg đã có trên 17 nghìn hộ nghèo đã được hỗ trợ, 6/13 tỉnh hoàn thành...
Đối với chương trình phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp tại đô thị và công nhân khu công nghiệp, đến nay cả nước đã hoàn thành 207 dự án nhà ở xã hội với quy mô xây dựng khoảng trên 85 nghìn căn, tổng diện tích khoảng 4,29 triệu m2 nhà ở và đang tiếp tục triển khai 220 dự án với khoảng gần 180 nghìn căn. Tuy nhiên, kết quả của chương trình này so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở Quốc gia là đến hết 2020 cả nước cần đạt 12,5 triệu m2 nhà ở xã hội thì mới đạt khoảng 34%.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả thấp như vậy, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu. Nguồn lực còn thấp, đối với nguồn ngân sách, mặc dù theo quy định của pháp luật về nhà ở thì ngân sách nhà nước sẽ cấp bù lãi suất cho các tổ chức tín dụng và Ngân hàng Chính sách xã hội khi thực hiện hỗ trợ nhà ở xã hội, nhưng trên thực tế việc cân đối nguồn vốn này đang khó khăn và được bố trí thấp, chỉ đáp ứng khoảng 30% so với yêu cầu, người dân và doanh nghiệp hiện đang rất trông chờ.
Mặt khác một số địa phương chưa quan tâm chỉ đạo xây dựng kế hoạch phát triển nhà ở xã hội, chưa đưa chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm theo quy định. Hầu hết các địa phương đều cho phép các chủ đầu tư dự án có quy mô sử dụng đất dưới 10ha lựa chọn hình thức nộp tiền tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, nhưng địa phương chưa bố trí nguồn này để đầu tư phát triển nhà ở xã hội. Bên cạnh đó một số cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng nhà ở xã hội thuộc thẩm quyền của các địa phương nhưng cũng chưa được quan tâm đúng mức để thu hút các doanh nghiệp tham gia như chưa tích cực hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào các dự án từ nguồn ngân sách địa phương.
Cơ chế chính sách chưa đủ mạnh; thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng vẫn còn rườm rà, thời gian chuẩn bị đầu tư, bồi thường giải phóng mặt bằng, giao đất, thẩm định, phê duyệt quy hoạch dự án vẫn còn kéo dài...
Trước tình hình trên, Bộ Xây dựng đã có báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ về tình hình quy hoạch và khai thác, sử dụng quỹ đất đô thị dành cho phát triển nhà ở xã hội. Theo đó đã đề xuất, kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố quan tâm chỉ đạo phát triển nhà ở xã hội; sử dụng đúng khoản tiền các chủ đầu tư nộp tương đương giá trị quỹ đất 20% để đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, giao Bộ Xây dựng thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các chủ đầu tư không thực hiện đúng quy định; đồng thời tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phát triển nhà ở, nhất là nhà ở xã hội, theo đó sẽ sửa đổi, bổ sung Nghị định 100/2015/NĐ-CP về phát triển và quản lý nhà ở xã hội.
Đặc biệt, các cấp, các ngành và các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh việc rà soát, cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính trong quá trình chuẩn bị đầu tư các dự án nhà ở xã hội, chuyển đổi các dự án nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội, cơ cấu lại các dự án nhà ở thương mại, nhà ở xã hội cho phù hợp nhu cầu của từng đối tượng; cần nâng cao trách nhiệm trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư dự án, hộ gia đình, cá nhân trong việc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào các dự án nhà ở xã hội.
Điều quan trọng hiện nay cũng là điều chúng tôi rất mong muốn là Chính phủ, Quốc hội cần quan tâm bố trí đủ vốn ngân sách theo quy định luật pháp để thúc đẩy hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội, để tạo lợi ích kép: Vừa thực hiện đúng chủ trương coi phát triển nhà ở xã hội là một trong những trụ cột của chính sách an sinh xã hội, vừa thúc đẩy tăng trưởng, ổn định thị trường bất động sản và kinh tế vĩ mô.
PV: Trong năm 2019, thị trường bất động sản cơ bản được kiểm soát và phát triển tương đối ổn định. Vậy trong năm 2020, Bộ Xây dựng nhận định như thế nào về xu hướng thị trường và định hướng gì nhằm thúc đẩy thị trường bất động sản tiếp tục phát triển ổn định, không để xảy ra các biểu hiện cực đoan?
Bộ trưởng Phạm Hồng Hà: Bốn năm gần đây, thị trường bất động sản cơ bản được kiểm soát, phục hồi, ổn định và có sự tăng trưởng. Năm 2019, theo đánh giá chung, dư nợ tín dụng duy trì được ổn định; đầu tư nước ngoài đối với lĩnh vực bất động sản trong 11 tháng đầu năm đạt 3,31 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 10,4% tổng số vốn đầu tư đăng ký, đứng thứ 2 sau lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo…
Trên cơ sở đánh giá, dự báo các yếu tố có khả năng ảnh hưởng lớn đến thị trường bất động sản thì có thể dự báo trong năm 2020 chưa có các dấu hiệu, trạng thái cực đoan lớn. Tuy nhiên thị trường bất động sản còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp cần luôn được được quan tâm theo dõi sát, không chủ quan. Để tiếp tục kiểm soát và thúc đẩy thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển hiệu quả, lành mạnh, ổn định, cùng với việc triển khai các công cụ kiểm soát về quy hoạch, về tăng trưởng và chất lượng tín dụng, về thuế, chính sách của các Bộ, ngành Trung ương, các địa phương cần chỉ đạo và thực hiện tốt việc theo dõi chặt chẽ tình hình thị trường bất động sản; tăng cường kiểm soát thị trường, chủ động ứng phó với các tình huống cực đoan như trầm lắng, bong bong, sốt giá cục bộ.
Trong Đề án của Bộ Xây dựng đã chỉ rõ các giải pháp khung để xử lý các tình huống này, tuy nhiên các địa phương cần có giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc thù của địa phương mình, sớm đưa ra những đề xuất, kiến nghị bảo đảm thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Các địa phương cần tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án bất động sản đang bị ách tắc trong triển khai (nhất là ở TP.HCM và Hà Nội), nếu không khai thông được sẽ lãng phí vốn đầu tư, ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách địa phương và quan trọng hơn, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Bộ Xây dựng cũng đã đề ra nhiều giải pháp mang tính cấp bách cũng như lâu dài đối với lĩnh vực quản lý phát triển nhà ở và thị trường bất động sản trong năm 2020 cũng như giai đoạn tới. Theo đó, cần tiếp tục thực hiện tái cơ cấu thị trường bất động sản, gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, đặc biệt là nhà ở xã hội; khắc phục lệch pha cung - cầu, phát triển đa dạng hóa các loại hàng hóa bất động sản nhà ở trong đó đẩy mạnh phát triển phân khúc nhà ở xã hội đô thị, nhà ở cho công nhân lao động, nhà ở cho thuê.
Đồng thời tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách mô hình hợp lý để huy động các nguồn lực; kiểm soát chặt chẽ việc quy hoạch và khai thác, sử dụng hiệu quả quỹ đất đô thị dành cho nhà ở xã hội. Tiếp tục rà soát, đánh giá các khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai chính sách trong công tác cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư cũ, từ đó nghiên cứu, đề xuất cơ chế tháo gỡ nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, cơ quan, đơn vị có liên quan kiểm tra, giám sát các địa phương trọng điểm trong việc triển khai các dự án phát triển nhà ở, dự án khu đô thị, dự án bất động sản du lịch nghỉ dưỡng có quy mô lớn, sử dụng nhiều diện tích đất để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm quy định của pháp luật...
Với những giải pháp mang tính tổng thể, toàn diện như vậy, nếu thực hiện tốt chắc chắn chúng ta sẽ duy trì được sự phát triển ổn định, lành mạnh, tạo được tăng trưởng trong phát triển nhà ở và thị trường bất động sản.
PV: Bước vào năm 2020, Bộ trưởng có thông điệp gì tới cán bộ, công nhân viên ngành xây dựng nhằm góp phần thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Chính phủ và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao?
Bộ trưởng Phạm Hồng Hà: Thực hiện phương châm hành động đã được Chính phủ đề ra trong năm 2020 là “Kỷ cương, liêm chính, hành động, trách nhiệm, sáng tạo, hiệu quả”, ngay trong tháng 1/2020, Bộ Xây dựng sẽ ban hành kế hoạch hành động thực hiện các Nghị quyết 01/NQ-CP; Nghị quyết 02/NQ-CP và kịch bản tăng trưởng cụ thể trong lĩnh vực xây dựng, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện.
Năm 2020, ngành Xây dựng cũng đã đề ra những mục tiêu cụ thể đối với từng lĩnh vực quan trọng như giá trị sản xuất xây dựng toàn ngành tăng 9-10% so với 2019; tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 40%; tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch đạt khoảng 90%; diện tích nhà ở bình quân đạt 24m2 sàn/người…
Để phấn đấu đạt được các mục tiêu đề ra, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động toàn ngành cần có quyết tâm mới, động lực mới, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, khát vọng vươn lên, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện nhiệm vụ; kiên quyết loại bỏ, xử lý những hành vi nhũng nhiễu, vụ lợi, tham nhũng, chây ì khi thực hiện nhiệm vụ.
Năm 2020 cũng là năm cuối nhiệm kỳ, các đơn vị, tập thể, cá nhân đúc rút những bài học, kinh nghiệm, làm cơ sở để định hướng nhiệm vụ và giải pháp trong giai đoạn 5 năm tới; tiếp tục phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của các tổ chức Đảng, đoàn thể, tạo sự đoàn kết, đồng thuận, chăm lo đời sống việc làm cho người lao động, tạo động lực để họ phát huy năng lực, công hiến, góp phần tạo sự vững mạnh của từng đơn vị cũng như toàn ngành.
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!