EVFTA là một Hiệp định toàn diện, tiêu chuẩn cao, cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU), phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Việc EP phê chuẩn EVFTA có ý nghĩa lớn, qua đó thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của các bên. Việc nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ yêu cầu tiêu chuẩn, chất lượng cao cũng sẽ hỗ trợ tích cực cho quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Những cam kết dành đối xử công bằng, bình đẳng, bảo hộ an toàn và đầy đủ cho các khoản đầu tư và nhà đầu tư của nhau trong Hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA) cũng sẽ góp phần tích cực vào việc xây dựng môi trường pháp lý và đầu tư minh bạch, giúp Việt Nam có cơ hội thu hút nhiều hơn nhà đầu tư đến từ EU và các nước khác.
PV: Trong quá trình đàm phán, phía EU đặc biệt quan tâm tới một số vấn đề như liên quan đến luật pháp. Vậy, Việt Nam đã có chuẩn bị gì cho việc này?
Ông Vũ Hồng Thanh: Để chuẩn bị cho việc tiếp cận và triển khai EVFTA, Chính phủ, Bộ Công Thương và các bộ, ngành có liên quan đã sớm triển khai nhiều công việc. Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi), phê chuẩn Công ước 98 của ILO (về quyền tổ chức và thương lượng tập thể) và đang trình Quốc hội xem xét thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Đầu tư (sửa đổi) và các luật khác có liên quan, tập trung vào rà soát, sửa đổi để phù hợp với cam kết của Việt Nam tại EVFTA, cũng như CPTPP và các cam kết quốc tế khác.
Dự kiến Việt Nam sẽ tiếp tục công việc chuẩn bị để tiến tới phê chuẩn Công ước 105 về lao động cưỡng bức vào năm 2020 và Công ước 87 về tự do hiệp hội vào năm 2023. Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo các công việc cần thiết để tiến tới việc trình phê chuẩn các công ước này theo quy định.
Tại kỳ họp thứ 8 vừa qua, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi cũng đã hài hòa hơn, tiệm cận với nhiều nội dung và nguyên tắc cơ bản của các Công ước cơ bản về lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) để tạo điểu kiện thực hiện cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại thế hệ mới, tăng cường bảo vệ người lao động, hài hòa lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Các vấn đề liên quan như quyền của người lao động; những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững; kiểm dịch động vật; hay vấn đề chống đánh bắt cá bất hợp pháp và không khai báo... đã được Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có giải pháp để tháo gỡ.
Ví dụ, trong năm 2019, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp khắc phục cảnh báo của EC về IUU để lấy lại “thẻ xanh” và hướng tới phát triển thủy sản biển bền vững; chấm dứt tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp, không quản lý, không khai báo. Vấn đề này cũng được các đại biểu Quốc hội thảo luận tại kỳ họp thứ 8 cuối năm 2019 đề xuất các giải pháp cụ thể để Chính phủ quan tâm trong triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2020.
Các bộ, ngành cũng đã thông tin, truyền thông một cách mạnh mẽ để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, hiểu đầy đủ về các nội dung của Hiệp định này.
PV: Theo ông, Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực sẽ đóng góp như thế nào trong tương lai kinh tế Việt Nam?
Ông Vũ Hồng Thanh: EVFTA được kỳ vọng sẽ tác động tích cực đến việc thực hiện hầu hết các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2020, nhất là các chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, tỉ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP. Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng thêm khoảng 20% và kim ngạch nhập khẩu từ EU tăng khoảng 15,28% trong năm 2020 so với khi không có Hiệp định; GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân 2,18 - 3,25% trong giai đoạn 2019 - 2023, tăng việc làm khoảng 146.000 lao động mỗi năm…
EVFTA điều chỉnh nhiều vấn đề về mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và mua sắm của các cơ quan chính phủ. Qua đó, sẽ thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Thông qua việc thực hiện EVFTA và IPA, nhà đầu tư EU cũng sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường các nước đã ký FTA với Việt Nam với những đối xử ưu đãi hơn, giúp thúc đẩy quan hệ giữa EU với từng nước ASEAN nói riêng và cả khối ASEAN nói chung, từ đó Việt Nam sẽ tiếp tục nâng cao vị thế của mình trong khu vực ASEAN, đóng góp vào quá trình xây dựng ASEAN phát triển bền vững.
Trong bối cảnh hiện nay với các tranh chấp thương mại cũng như tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác động không nhỏ trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đồng thời cũng bộc lộ rõ hơn các hạn chế, yếu kém của nền kinh tế như vấn đề phụ thuộc quá nhiều vào một vài thị trường; việc nhập khẩu nhiều nguyên vật liệu đầu vào, nhất là cho một số ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam; quy tắc xuất xứ…
Do vậy, việc triển khai hiệu quả EVFTA cũng là cơ hội cho doanh nghiệp trong nước ưu tiên đầu tư đổi mới công nghệ nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng, năng suất, chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của EU và nâng cao năng lực quản trị, điều hành của doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế tốt. Điều này có ý nghĩa quyết định đối với khả năng tiếp cận thị trường, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nước ta tại thị trường EU, cũng như các thị trường xuất khẩu khác, tránh quá lệ thuộc vào một vài đối tác thương mại lớn. Đồng thời, quan tâm quy tắc xuất xứ hàng hóa để được hưởng lợi nhiều hơn khi tham gia, chủ động phát triển nguyên vật liệu thay thế hàng nhập khẩu, tránh bị lợi dụng làm trạm trung chuyển hàng hóa đi các nước khác.
PV: Xin cám ơn ông!