Kiến tạo cực tăng trưởng mới, phát triển chuỗi đô thị, vùng động lực quốc gia và khai thác bền vững nguồn lực đất đai
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã mở ra một tầm nhìn phát triển mới: Hình thành các cực tăng trưởng mạnh, phát triển chuỗi đô thị động lực, tăng cường liên kết vùng và khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai. Những định hướng lớn này, theo nhiều chuyên gia, sẽ tạo nền tảng để Việt Nam bước vào giai đoạn kiến tạo không gian phát triển hiện đại, bền vững và có sức cạnh tranh cao hơn.
Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, xác định: Hình thành các cực tăng trưởng mạnh, các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các đặc khu kinh tế thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu.
Theo nhiều chuyên gia, ngoài mục tiêu phát triển kinh tế - đô thị, xác lập mô hình tăng trưởng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ trương này còn là sự “dịch chuyển” mạnh mẽ của tư duy phát triển không gian, đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mô hình tổ chức lãnh thổ hiện đại mà nhiều quốc gia công nghiệp đã thành công.
Chia sẻ với Reatimes, PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan, Ủy viên BCH Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam, nguyên Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) cho biết, các quốc gia trên thế giới đều có chiến lược phát triển kinh tế dựa trên những mô hình khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Không gian phát triển có thể dàn trải đồng đều hoặc tập trung thành những cực tăng trưởng lớn, tùy theo chiến lược của từng quốc gia và yêu cầu của nền kinh tế.
"Nhưng dù là mô hình phát triển nào, thì hệ thống đô thị luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp từ 70 - 80% vào tăng trưởng kinh tế quốc gia. Vì vậy, phát triển hệ thống đô thị luôn là trọng tâm của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Và yêu cầu của Đảng về hình thành các cực tăng trưởng mạnh là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển hiện đại", PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan nhấn mạnh.
Tại Việt Nam, những năm qua, quá trình phát triển vẫn còn mang tính dàn trải, chưa thật sự hình thành được những cực tăng trưởng mạnh. Sự phân tán nguồn lực khiến động lực tăng trưởng không đủ lớn, quy hoạch vùng chưa thực sự tạo được sức bật nổi trội.
Dù vậy, các đô thị lớn đã và đang đóng góp đáng kể vào GDP quốc gia. Do đó, trong chiến lược phát triển hiện nay, yêu cầu nâng tầm nền kinh tế gắn với mong muốn vươn lên trong kỷ nguyên mới đòi hỏi sức bật của các đô thị phải được thúc đẩy mạnh mẽ hơn.
Theo phân tích của PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan, Đảng xác định rõ mục tiêu nâng tầm nền kinh tế, hình thành những cực tăng trưởng có sức lan tỏa quốc gia. Việt Nam hiện có 6 thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng và Cần Thơ, đóng góp 58% GDP cả nước năm 2025. Theo định hướng của Nghị quyết 06 - NQ/TW năm 2022 của Bộ Chính trị, sẽ có thêm 4 thành phố trực thuộc Trung ương mới (Quảng Ninh, Bắc Ninh, Ninh Bình, Khánh Hòa). Trong tương lai, 10 cực tăng trưởng này sẽ giúp “bao trùm GDP quốc gia lên trên 70%”, tạo nên một cấu trúc phát triển tập trung, hiệu quả, có quy mô đủ lớn để cạnh tranh khu vực.
“Những chiến lược phát triển này sẽ tạo ra sức bật mạnh hơn cho nền kinh tế, tương tự cách Trung Quốc phát triển các cực đô thị duyên hải từ năm 2000 và tạo nên sự chuyển mình ngoạn mục như Thâm Quyến, Quảng Châu, Thiên Tân, Bắc Kinh, Thượng Hải”, PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan cho hay.
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân đánh giá, việc xác định rõ mục tiêu hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị và các đặc khu kinh tế thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu, cho thấy tư duy phát triển hướng tới việc định hình những không gian tăng trưởng đủ tầm vóc, đủ quy mô và đủ năng lực để Việt Nam tham gia cạnh tranh ở cấp độ khu vực và quốc tế.
Từ tầm nhìn này, có thể kỳ vọng cấu trúc không gian quốc gia sẽ chuyển dịch sang mô hình các vùng kinh tế mạnh, có trụ cột rõ ràng, không còn phát triển theo kiểu cục bộ nhỏ lẻ. Những đặc khu kinh tế thế hệ mới, nếu được thiết kế theo chuẩn quốc tế, gắn với thương mại, tài chính, logistics, đổi mới sáng tạo, hoàn toàn có khả năng trở thành cực hút vốn và động lực lan tỏa cho khu vực.
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng đánh giá, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng có "tính bao quát, toàn diện, chiều sâu và tính lan tỏa".
"Định hướng phát triển của Đảng nhấn mạnh việc khai thác không gian ngầm như một phần cấu trúc phát triển đô thị và cực tăng trưởng. Tư duy liên kết vùng được mở rộng, phá vỡ ranh giới chia cắt cục bộ, đặt nền móng cho việc xác lập những thế mạnh vượt trội cho từng vùng, biến mỗi cực tăng trưởng thành một "trụ cột" của miền Bắc, miền Trung hoặc miền Nam", PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng chỉ ra những thay đổi mang tính nền tảng.
"Cách thức phát triển mang nặng tính cục bộ địa phương, quy mô nhỏ sẽ hạn chế khả năng huy động nguồn lực. Còn khi kết hợp được cả phát triển trên mặt đất, khai thác không gian ngầm và mở rộng liên kết có thể tạo ra thế mạnh vượt trội cho từng vùng, tạo nên cực tăng trưởng đủ sức làm trụ cột cho mỗi khu vực. Cách tiếp cận này giúp giảm chia cắt, mở rộng tầm nhìn về nguồn lực, tận dụng được nguồn lực đa dạng hơn, đặc biệt là tận dụng không gian ngầm, vốn đang bị lãng phí. Việc khai thác đồng thời ba yếu tố mặt đất, không gian ngầm và liên kết vùng sẽ giúp tối ưu hóa nguồn lực, tạo đột phá mạnh mẽ", ông Lạng nhấn mạnh.
Cụ thể, Dự thảo Báo cáo chính trị và Dự thảo Chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, cũng đề cập đến yêu cầu: Đẩy nhanh tốc độ nâng cao chất lượng đô thị hóa bảo đảm kết hợp đồng bộ và hài hòa giữa cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị với phát triển các đô thị mới. Chú trọng mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng (TOD), khai thác hiệu quả không gian ngầm, nhất là tàu điện ngầm tại các đô thị lớn. Mở rộng các loại hình nhà ở, ưu tiên phát triển nhà ở xã hội.
Đây là định hướng đặt Việt Nam vào quỹ đạo quy hoạch đa tầng - đa không gian, gắn với giao thông công cộng, quỹ đất hai bên tuyến metro, không gian ngầm và mô hình đô thị thông minh.
PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan nhìn nhận, việc phát triển đồng bộ hệ thống đô thị, khu công nghiệp và khu kinh tế đóng vai trò then chốt trong quá trình liên kết vùng. Trong đó, việc hình thành “những điểm kinh tế tập trung dọc theo các hành lang giao thông” sẽ tạo nên các chuỗi đô thị có tính tương hỗ cao, khắc phục sự manh mún và gia tăng năng lực kết nối. Đặc biệt, với đặc thù Việt Nam trải dài hơn 3.000km từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam, hệ thống cao tốc, đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị chính là “huyết mạch để liên kết các cực phát triển”, từ đó tạo ra mạng lưới kinh tế - đô thị thống nhất.
“Không có sự phát triển nào tách rời mà mang lại hiệu quả bền vững. Hệ thống giao thông và các đô thị TOD là cấu phần quan trọng của liên kết vùng hiện đại, tạo nên các điểm kinh tế tập trung dọc hành lang giao thông và hình thành những khu vực đô thị mới. Đây là quy luật phát triển logic, phù hợp với yêu cầu thúc đẩy mạng lưới liên kết vùng”, bà Lan khẳng định.
Tư duy phát triển này được củng cố trong Dự thảo Báo cáo Chính trị, với yêu cầu: Đẩy mạnh liên kết vùng, nội vùng, mở rộng và tổ chức lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới. Đổi mới tư duy từ quản lý sang quản trị, kiến tạo phát triển vùng; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả phát triển phù hợp với tiềm năng, lợi thế và điều kiện cụ thể của từng địa phương, vùng và cả nước. Tăng cường xây dựng và phát triển đồng bộ, chất lượng cao hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đa phương thức, hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát huy vai trò của các vùng động lực quốc gia, cực tăng trưởng, các hành lang kinh tế, các đô thị lớn, các trung tâm kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách điều phối và quản lý phát triển vùng.
PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan cho rằng đây là “điểm then chốt để tạo sức bật mạnh”. Khi phân cấp, phân quyền gắn với điều phối, quản trị hiệu quả và mang tính kiến tạo, các vùng động lực sẽ phát triển nhanh hơn, giảm chồng chéo, nâng cao hiệu suất đầu tư công và đầu tư tư nhân.
Ở góc nhìn kinh tế - không gian đô thị, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh rằng, việc phát triển đô thị theo chuỗi và đa tầng, gắn với khai thác không gian ngầm và hệ thống hạ tầng hiện đại, sẽ tạo ra những tác động tích cực có tính nền tảng đối với cấu trúc phát triển vùng và chất lượng thị trường bất động sản. Các tác động này không chỉ cải thiện cách thức sử dụng nguồn lực mà còn định hình một mô hình đô thị mới, hiện đại, đa trung tâm, đa lớp và có khả năng cạnh tranh cao.
Thứ nhất, sử dụng đất đai hiệu quả hơn, tránh lãng phí, tránh manh mún. Không gian ngầm có thể khai thác sâu 60 - 70m, tạo nên “một thế giới thứ hai”, với các trung tâm thương mại và tuyến giao thông ngầm hiện đại.
Thứ hai, tạo mặt bằng sống mới, với nhà ở xã hội, trung cấp và cao cấp được quy hoạch đồng bộ, nâng cao chất lượng dịch vụ và tiện ích.
Thứ ba, cho phép hình thành các siêu đô thị, trung tâm tài chính - thương mại - công nghiệp - nông nghiệp sinh thái, với kiến trúc và quy hoạch hiện đại, đa tầng, đa lớp, đáng sống hơn hẳn mô hình truyền thống. Cùng với đó, sẽ có những tuyến giao thông đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo nên hình ảnh giao thông mới, rộng rãi, khang trang, xanh, an toàn.
Thứ tư, hình thành các đại dự án công nghiệp - dịch vụ - logistics quy mô lớn, đủ sức vươn ra toàn cầu, thay vì những mô hình nhỏ lẻ khó cạnh tranh quốc tế.
“Hình ảnh đô thị trong tương lai chắc chắn sẽ khác hiện nay: Quy hoạch rộng rãi hơn, kiến trúc tốt hơn, môi trường sống đáng sống hơn, chất lượng sống cao hơn”, ông Lạng tin tưởng.
Trong bối cảnh hàng loạt dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia đang triển khai đồng thời, như cao tốc Bắc Nam, đường ven biển, metro, vành đai, sân bay… việc khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai trở thành vấn đề rất đáng quan tâm.
Dự thảo Báo cáo Chính trị nêu rõ yêu cầu: Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, hiện đại, thích ứng linh hoạt, theo vòng đời và bao phủ toàn dân, toàn diện, lấy con người là trung tâm, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân; bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu có chất lượng; ưu tiên các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế và đối tượng trong khu vực phi chính thức, mở rộng tín dụng chính sách xã hội phù hợp điều kiện, trình độ phát triển của Việt Nam, "không để ai bị bỏ lại phía sau".
PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan cho rằng yêu cầu này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các cực tăng trưởng, chuỗi đô thị và vùng động lực được thúc đẩy mạnh mẽ. Khi phát triển nhanh, quy mô lớn và liên kết rộng, tác động xã hội không chỉ diễn ra ở những trung tâm đô thị mà lan tỏa tới các khu dân cư nhỏ, các vùng ven, và những nhóm yếu thế. Vì vậy, hệ thống an sinh đa tầng chính là "lớp đệm" để bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả phát triển, giảm thiểu rủi ro bị "gạt ra" ngoài trong quá trình đô thị hóa và tái cấu trúc không gian kinh tế.
"Khi đặt mục tiêu phát triển mạnh, nhanh và mang tính liên kết rộng, quá trình triển khai cần bổ sung yếu tố cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và quan tâm tới các điểm dân cư, đặc biệt là khu vực khó khăn.
Sự kết nối cần bảo đảm công bằng xã hội, tránh tập trung quá mức vào các trung tâm lớn mà ảnh hưởng đến những khu dân cư nhỏ hoặc dễ tổn thương. Việc khai thác tài nguyên quá mức có thể gây mất cân bằng sinh thái và tác động tiêu cực đến hệ thống dân cư hiện hữu”, PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan phân tích, đồng thời chỉ ra, mọi chiến lược khai thác giá trị tài nguyên đất phải được đánh giá cụ thể cho từng vùng, từng dự án, tránh khai thác quá mức, tránh gây mất cân bằng sinh thái hoặc ảnh hưởng đến đời sống cư dân.
Về phát triển bền vững nguồn lực đất đai, chuyên gia Đỗ Tú Lan cho rằng, đất đai là tài nguyên và cũng là nguồn lực kinh tế rất lớn. Nếu khai thác hợp lý, hiệu quả, nguồn lực này sẽ tạo sức bật kinh tế cho từng vùng miền. Nếu để lãng phí hoặc khai thác không hiệu quả, đất đai sẽ gây tổn hại lớn cho quốc gia.
“Hiệu quả khai thác đất đai phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Lựa chọn đúng vị trí, đúng nhà đầu tư và phân tích thị trường một cách bài bản; bảo đảm bài toán kinh tế - xã hội - thị trường được tính toán đầy đủ; tránh bong bóng, phát triển không phù hợp, lãng phí”, PGS.TS.KTS. Đỗ Tú Lan chia sẻ.
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cũng đồng tình, đất đai là nguồn lực kinh tế lớn, quyết định khả năng tạo sức bật cho từng vùng. Nếu quy hoạch thiếu tổng thể, đất đai bị bỏ hoang hoặc sử dụng kém hiệu quả, sẽ làm suy giảm sức bật phát triển của từng vùng, và nền kinh tế sẽ đánh mất cơ hội.
Đất đai là nguồn lực kinh tế lớn, quyết định khả năng tạo sức bật cho từng vùng. (Ảnh minh hoạ)
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định của thị trường bất động sản trong cấu trúc phát triển mới. Theo đó, không được để xảy ra tình trạng "bong bóng, phát triển lãng phí hay lệch pha"; thị trường phải vận hành theo hướng minh bạch, ổn định, hiệu quả và luôn gắn chặt với quy hoạch vùng cùng các cực tăng trưởng. Chỉ khi thị trường bất động sản vận hành đúng quỹ đạo, việc khai thác nguồn lực đất đai mới thực sự tạo ra giá trị lâu dài và đóng góp cho sự phát triển bền vững của toàn nền kinh tế.
Bên cạnh đó, để thực hiện thành công, chuyên gia cho rằng, cần cải cách thể chế mạnh mẽ, tăng hiệu lực, hiệu năng và hiệu quả quản trị. Hiệu lực thể hiện ở chỗ chính sách được thực thi ngay khi ban hành; hiệu năng thể hiện ở khả năng vận hành kỹ thuật đồng bộ, tối ưu; hiệu quả thể hiện ở chi phí thấp hơn, phát thải ròng thấp hơn, chi phí xã hội thấp hơn nhưng lợi ích xã hội lớn hơn.
Có thể thấy, bằng việc đặt ra yêu cầu hình thành các cực tăng trưởng mạnh, phát triển chuỗi đô thị - vùng động lực, thúc đẩy liên kết vùng và khai thác không gian ngầm, gắn với yêu cầu sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã thể hiện một tầm nhìn chiến lược, hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu. Các chuyên gia kỳ vọng, Việt Nam sẽ hình thành không gian phát triển hoàn toàn mới, hiện đại hơn, thông minh hơn, bền vững hơn, và có sức cạnh tranh cao hơn trong kỷ nguyên vươn mình./.

